Xưa, để bảo vệ ngôi đền khỏi sự tàn phá của các thế lực xâm lược ngoại bang, nhân dân gọi chệch đi là miếu Hai Cô. Ngôi miếu cổ nằm hiền hòa dưới bóng hai cây táu cổ thụ, gốc to bốn, năm người ôm không xuể, có tuổi hàng ngàn năm. Điều thú vị là một cây cho hoa mầu vàng, một cây cho hoa mầu bạc.

Hè năm 1978, Ban lãnh đạo hợp tác xã  Động Lực định cho chặt hai cây táu làm củi nung gạch. Biết tin, các cụ già của thôn Hương Lan đồng lòng kéo ra miếu, cương quyết giữ cây và cho biết đây là nơi thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, vốn quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên dậy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai thầy cô tạ thế cùng một giờ, vào ngày 2/2, năm Quí dậu ( 228 trước công nguyên). Như vậy, ngôi đền được nhân dân Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt gần 23 thế kỷ.

Tượng thầy trò Vũ Thê Lang trong Thiên Cổ Miếu. Ảnh minh họa: flickr.com.

Hiện còn một bản ngọc phả quý được viết lần đầu vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn ghi chép lại nguồn gốc của ngôi miếu cổ: “Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ. Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn, Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi. Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông tang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa”.

Hoành phi và câu đối trong miếu Thiên Cổ có từ thời Tự Đức năm thứ nhất (1848). Trong đền, ngoài ba lư hương cổ bằng gốm từ thời nhà Lý, nhà Lê, còn có một số đồ thờ bằng gỗ như ống hương, hai cây nến… Đặc biệt là các pho tượng: Phụ vương, Mẫu vương và hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa cùng hai thị nữ, đã có trên 70 năm. Trong Thiên Cổ Miếu, trên bàn thờ có tượng của thầy cô và hai thị nữ theo hầu, đó là Tiên Dung và Ngọc Hoa (được dùng để ngụy trang). Ngoài ra còn có một bức Hoành phi nhỏ ghi “Thiên Cổ Miếu” và hai câu đối bằng gỗ mộc dài chừng 1 m, đều viết bằng chữ Hán “Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chích khí linh từ” (nghĩa là: Đền thiêng thờ người có chí khí mạnh mẽ, lớn lao của trời Nam).

Nay những hoành phi câu đối này đều được viết bằng chữ Việt cổ, tức là chữ “Khoa đẩu”, chữ của dân tộc ta có từ thời Hùng Vương. Chính từ những chứng tích của ngôi đền này, các nhà nghiên cứu, mà tiên phong là ông Đỗ Văn Xuyền, tìm ra cả một hệ thống trường học, cùng tên của các thầy cô giáo và học sinh xuất sắc từ thời Hùng Vương trên khắp đất nước ta. Không những thế, những chứng tích quí báu này đã tạo tiền đề cho các nhà nghiên cứu tìm và giải mã được bộ chữ “Khoa đẩu” có từ trước công nguyên của Việt Nam, khẳng định được bộ chữ Quốc ngữ được các giáo sĩ phương tây cùng những trí thức Việt Nam La Tinh hóa tên cơ sở bộ chữ “Khoa đẩu” bằng những căn cứ khoa học không thể chối cãi và được giới nghiên cứu trong và ngoài nước thừa nhận.

Cũng chính tại nơi đây, đúng 10h ngày 29/3/2009, tức ngày 4/3 âm lịch, địa phương đã long trọng khánh thành Thần Quy bằng đá nguyên khối, nặng 4 tấn, mô phỏng Thần Quy xưa đời Nghiêu. Người Việt còn tặng con rùa ngàn năm tuổi, trên mai có khắc chữ “Khoa đẩu” (chữ như con nòng nọc) chép việc từ thời khai thiên lập địa trở đi để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Chữ Việt cổ trên mai Thần Quy có nội dung: “Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là Hồng Bàng, bậc quân Vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là hậu duệ của Thần Nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong Vương làm chủ Nam Việt. kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngàn, con gái Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con trai từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách Việt vậy” (Ngọc phả Liệt Vị Đại Vương – La Nội, Hà Tây). Sự kiện này cũng được chép trong Ngọc phả đền: “Tứ Lạc Long Quân chi tử” đời Trần Thái Tông, tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Trong sách “Thông giám cương mục” của Chu Hy, sách “Tân lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh…

Ngày nay, Thiên Cổ Miếu không chỉ là điểm đến của những người “Tôn sư trọng đạo”, trong nước, mà còn là điểm đến của không biết bao nhà nghiên cứu và du khách nước ngoài. Tất cả đều khâm phục truyền thống văn hóa, truyền thống dậy và học của dân tộc ta. Gần đây nhất, ngày 7/7/2009 âm, tức ngày 26/8/2009, một đoàn 50 người của từ Brazil, Chi Lê, Tây Ban Nha, Pháp, Hungari, Italy… đã đến thăm viếng miếu và dâng lên 18 cặp bánh chưng, bánh dầy tỏ ý tôn trọng cội nguồn văn hóa Việt Nam.

Thiên Cổ Miếu là một minh chứng cho truyền thống giáo dục của dân tộc Việt Nam, một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến.

Theo Đất Việt

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *