Trải qua gần 60 năm hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, trong đó có 26 năm là Bí thư thứ nhất rồi Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của nhân dân. Lịch sử nước ta mãi khẳng định công lao to lớn và cống hiến xuất sắc của ông.
Tổng bí thư Lê Duẩn, giai đoạn 1960-1985. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Những đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam
Đồng chí Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7/4/1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình giàu truyền thống văn hóa và cách mạng. Từ một thanh niên giàu lòng yêu nước, say mê với lý tưởng cách mạng, ông sớm trở thành một trong những đảng viên lớp đầu của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, mới 24 tuổi, ông được cử làm Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ. Sau đó, bị thực dân Pháp bắt và lưu đày tại các nhà tù khét tiếng, tàn bạo như Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. Sau khi thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp, ông được bầu là Bí thư Xứ ủy Trung kỳ năm 1937. Với cương vị này, ông đã cùng các đồng chí của mình như Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu… khôi phục các tổ chức Đảng ở Trung kỳ, góp phần vào cao trào đấu tranh sôi nổi trong cả nước.
Tháng 3/1938, tại Hội nghị Trung ương, trước biến chuyển của tình hình và bằng cảm quan nhạy bén chính trị, ông đã đề xuất ý kiến cần phải xây dựng Mặt trận dân chủ để đấu tranh với kẻ thù. Thực tế sau đó đã chứng minh luận điểm sáng tạo này của ông.
Cuối năm 1939, với cương vị là Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ông đã cùng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương, quyết định thành lập Mặt trận Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới…
Từ nhà tù Côn Đảo, lần thứ 2 trở về đất liền, ông trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam bộ. Những năm 1946-1954, với cương vị là Bí thư Xứ ủy, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, ông cùng tập thể lãnh đạo Trung ương Cục tổ chức cuộc kháng chiến ở Nam bộ và tiến hành cải cách ruộng đất trong các vùng giải phóng.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ông đã tự nguyện ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng. Bằng uy tín và năng lực của mình, ông đã trở thành trung tâm đoàn kết quy tụ các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; những nhân sĩ, trí thức Nam bộ tên tuổi cùng sát cánh trong sự nghiệp kháng chiến của dân tộc.
Tháng 10/1954, tại rừng U Minh, Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam bộ được triệu tập. Tại hội nghị này ông chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Tại cực Nam của Tổ quốc – rừng U Minh, ông bắt đầu khởi thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”. Đề cương đã giúp cán bộ, nhân dân tìm ra phương thức đấu tranh chống lại kẻ thù tàn bạo, là cơ sở cho Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) năm 1959 về con đường tiến lên của cách mạng miền Nam.
Từ năm 1960, với cương vị là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng, Lê Duẩn
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ông đã tự nguyện ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng |
là người chịu trách nhiệm chủ yếu trước Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng về phong trào cách mạng miền Nam. Ông là người chuẩn bị soạn thảo các văn kiện cụ thể hóa và hoàn chỉnh dần đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam, đưa đến những quyết định mang tính lịch sử, xác định đường lối chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1975, nhận thấy tình hình chiến trường có lợi cho ta, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đề nghị Bộ Chính trị và Thường trực Quân ủy Trung ương chuyển sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Từ đề nghị này, Bộ Chính trị, Thường trực Quân ủy Trung ương đã hạ quyết tâm chuẩn xác tạo điều kiện thúc đẩy cuộc tiến công chiến lược giành thắng lợi nhanh hơn, to lớn hơn, đưa đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào năm 1975.
Đất nước thống nhất, 10 năm trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng (1976-1986), ông đã cùng Ban Chấp hành Trung ương vạch ra và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời định ra chiến lược kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về mặt quốc tế, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã có những đóng góp lớn vào việc xây dựng, củng cố tình hữu nghị và đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân Lào, Campuchia và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em; góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin, chống chủ nghĩa cơ hội và xét lại, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Nhà lý luận xuất sắc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam
Trưởng thành trong thực tiễn cách mạng, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, Tổng Bí thư Lê Duẩn rất coi trọng nghiên cứu lý luận, học tập lý luận, rèn luyện tư duy lý luận, trăn trở suy nghĩ nhằm tìm ra và giải quyết các vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, ông đã góp phần quan trọng cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương hoạch định đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong việc tìm tòi con đường đưa nước ta từ một nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Ông đã để lại cho chúng ta di sản tư tưởng lý luận phong phú trên nhiều lĩnh vực: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, xây dựng Đảng, mà nổi bật là tư duy lý luận về các vấn đề : Xây dựng Đảng; chiến tranh nhân dân Việt Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên CNXH, ông đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm xác định và hoàn chỉnh đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đường lối ấy thể hiện những tư tưởng lớn của ông về giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; về nắm vững chuyên chính vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; về tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt, coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ; về nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa; về cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý…
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Đảng, Nhà nước đã đánh giá xứng đáng công trạng của ông trong điếu văn do Tổng Bí thư Trường Chinh đọc tại lễ truy điệu: “Cống hiến của đồng chí Lê Duẩn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta thật là to lớn”, “Lịch sử nước nhà mãi mãi khẳng định công lao to lớn và cống hiến xuất sắc của đồng chí Lê Duẩn”./.
Nguồn: VietNamPlus