Ngày toàn thắng 30-4-1975 là một mốc son chói lọi trong lịch sử nước ta, mang tầm quốc tế và thời đại. Chiến thắng đó đã mở ra kỷ nguyên mới đối với dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Đó là một thực tế lịch sử không ai có thể bác bỏ.
Nhân dân Sài Gòn tham dự mít tinh mừng chiến thắng 30-4-1975. (Ảnh: tư liệu) |
Thực hiện chủ trương của Đảng, mùa Xuân năm 1975, với sức mạnh thần tốc, táo bạo, bất ngờ, quân và dân ta bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã thừa thắng xông tới, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng này đã khép lại cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta ròng rã gần 1/3 thế kỷ (1945 – 1975) kể từ khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn trở lại Nam Bộ; trong đó, hơn 1/5 thế kỷ (1954 – 1975) chống đế quốc Mỹ can thiệp và xâm lược miền Nam. Đó là mốc son đánh dấu cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng đã hoàn thành, thực hiện được những mục tiêu vĩ đại: dân tộc độc lập, Tổ quốc thống nhất, nhân dân ta có cuộc sống trong hòa bình, tự do và làm chủ. Cũng từ đây, một trang sử mới đã mở ra, một nước Việt Nam của người Việt Nam, sạch bóng quân xâm lược, đi vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc đời mới.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là đại thắng của toàn dân tộc; của đức hy sinh, lòng dũng cảm và trí tuệ Việt Nam kết tinh bởi mưu lược sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Đảng và ý chí anh hùng, bất khuất của nhân dân ta. Với niềm tin “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” và hành động muôn người như một, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”, chúng ta đã làm nên chiến thắng. Sự sống mạnh hơn cái chết. Chính nghĩa đẩy lùi phi nghĩa. Đó là chiến thắng của cái thiện lớn nhất đối với cái ác lớn nhất trong thời đại ngày nay. Dân tộc Việt Nam với chiến công của mình đã đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới chống Chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chiến đấu cho sự tồn tại của mình mà cũng vì sự tồn tại của các dân tộc khác; vì độc lập – tự do – hạnh phúc, xứng đáng với quyền sống, quyền tự quyết để khẳng định và bảo vệ phẩm giá làm người. Chứng kiến sự kiện có một không hai này trong lịch sử anh hùng và bi tráng của Việt Nam trong thế kỷ XX, cả loài người tiến bộ và bạn bè của chúng ta ở khắp năm châu bốn biển đều thấy rõ, chiến thắng này không chỉ đem lại hòa bình, độc lập, thống nhất cho Việt Nam mà còn có sức mạnh cổ vũ các dân tộc đấu tranh cho tự do và công lý, thức tỉnh lương tri của nhân loại
Sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của sự phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc được tạo ra bởi đại đoàn kết toàn dân tộc, được nuôi dưỡng bởi ngọn nguồn văn hóa Việt Nam, lịch sử anh hùng, bất khuất trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sức mạnh ấy được tiếp nối, phát huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh – thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Ở thời khắc lịch sử đó, ngày 30-4-1975, tự đáy lòng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước và tự hào dân tộc đã cất lên tiếng hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” để cùng tưởng nhớ công lao to lớn của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc đã nhận định đúng đắn, chính xác: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua nhiều gian khổ, hy sinh nhưng nhất định chúng ta sẽ đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Việt Nam nhất định thắng. Đế quốc Mỹ xâm lược nhất định thua; “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dự báo, trù tính và niềm tin đó của Người đã truyền cảm, là chỉ dẫn cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hành động và đã thành hiện thực. Để hôm nay đất nước vững bước trên con đường lớn của lịch sử: độc lập dân tộc và CNXH.
Rõ ràng là, chiến thắng lịch sử 30-4-1975 như một kỳ tích, một huyền thoại mang tầm vóc thời đại ở thế kỷ XX. Đó là sự thật không gì có thể bác bỏ và phủ nhận được! Đúng như Đại hội IV của Đảng nhận định: “…thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1.
Gần 40 năm đã trôi qua, kể từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, thời gian càng lùi xa, thì Chiến thắng 30-4-1975 của dân tộc Việt Nam càng nổi bật tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của nó. Các thế hệ người Việt Nam càng cảm nhận đầy đủ và sâu sắc hơn giá trị và bài học của chiến công chói lọi này. Hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, nhân dân Việt Nam luôn thiết tha với hòa bình, khát vọng tự do và hạnh phúc, không bao giờ mong muốn chiến tranh. Nhưng, vì sinh mệnh và sự tồn vong của dân tộc, cũng vì nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng đối với quốc tế mà nhân dân ta, cả hai miền Nam – Bắc, tiền tuyến và hậu phương buộc phải cầm súng quyết chiến đấu và quyết chiến thắng. Để hôm nay mọi người Việt Nam được sống trong hòa bình, tự do mưu cầu hạnh phúc, phát triển, bạn bè quốc tế đến làm ăn, sinh sống, thăm thú trong thanh bình, điều đó chẳng quý lắm sao? Có được hòa bình như ngày hôm nay, dân tộc ta đã phải trả bằng máu và nước mắt, nên chúng ta rất thấm thía giá trị này. Ai đó, vì bất cứ lý do gì, gây mất ổn định, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam là có tội với đất nước, với anh linh của hàng triệu đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Khẳng định giá trị, ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Chiến thắng 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chúng ta cũng đồng thời phê phán những sự xuyên tạc lịch sử về Chiến thắng này với những thiên kiến lệch lạc, những ác ý thâm độc của các thế lực thù địch và cả những ngộ nhận, mơ hồ trong sự nhìn nhận, đánh giá sự thật lịch sử. Không ít người trong chính giới Mỹ, nhất là những người đã trực tiếp tham gia trong bộ máy quyền lực, hoạch định chiến lược và chính sách của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam hồi đó vẫn thường biện minh cho hành động của họ, coi đó là cần thiết để ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở châu Á và Đông Nam Á. Họ còn cho rằng, Mỹ hành động ở miền Nam là để giúp cho Việt Nam tiếp cận được văn minh và văn hóa phương Tây như một mẫu hình của dân chủ và tự do. Họ cũng xuyên tạc sự thật lịch sử khi cố sức tạo ấn tượng về một miền Bắc cộng sản xâm lược, thôn tính miền Nam và Mỹ có trách nhiệm bảo vệ đồng minh của mình (ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa do chính Mỹ tạo ra bằng sức mạnh của đồng đô la và quân sự), chứ không phải Mỹ xâm lược Việt Nam. Song, sự thật lịch sử vốn khách quan và tường minh, nó không phải như vậy!
Để thực hiện mục tiêu thôn tính miền Nam Việt Nam, biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của mình, đế quốc Mỹ đã đưa vào đây hơn nửa triệu quân để tham chiến và sử dụng tất cả các loại vũ khí, kỹ thuật hiện đại nhất với xe tăng, máy bay, đại bác và vũ khí hóa học hủy diệt sự sống trên mặt đất, mưu toan đè bẹp ý chí chiến đấu của dân tộc ta, buộc chúng ta phải khuất phục. Và, nhất là, khi liên tiếp sa lầy, thất bại trên chiến trường miền Nam, thì quân đội Hoa Kỳ đã mạo hiểm, phiêu lưu dùng ván bài cuối cùng hết sức vô nhân tính – ném bom hủy diệt Thủ đô Hà Nội bằng siêu pháo đài bay B.52, liên tục 12 ngày đêm vào cuối năm 1972, với lời hăm dọa “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời đồ đá”.
Miền Nam là một bộ phận không tách rời của Việt Nam; nói như Hồ Chí Minh, đó là thịt của thịt Việt Nam, máu của máu Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi. Quyền sống, quyền tự quyết dân tộc, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Những hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, can thiệp, áp đặt,… là điều trái đạo lý và pháp lý, thủ đoạn thường thấy ở các thế lực thực dân đế quốc. Ở đâu có những hành động ấy, ở đó tất yếu có sự đáp trả của nhân dân và dân tộc đã từng gắn kết bên nhau vì sự sống còn, vì số phận lịch sử, vì tự do và nhân phẩm. Đáp lại đòi hỏi ấy, quân – dân ta ở cả hai miền Nam – Bắc đã coi chống thực dân, đế quốc và những thế lực đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc là một sứ mệnh thiêng liêng. Ở đâu có kẻ thù xâm lược Việt Nam, ở đó có người Việt Nam chống xâm lược. Đó là mệnh lệnh của ý thức dân tộc và lòng yêu nước. Chỉ có người Việt Nam chống kẻ thù xâm lược chứ không có chuyện miền Bắc xâm lược miền Nam như sự tuyên truyền từ những thế lực thù địch hiếu chiến và những kẻ phản động tự tách mình khỏi dân tộc vẫn thường rêu rao. Với mục tiêu, tính chất, lực lượng, phương tiện mà họ đã sử dụng trong cuộc chiến thì phải khẳng định: đây là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Đó là điều thứ nhất mà sự thật cần lên tiếng.
Chiến thắng 30-4-1975 là sự tôn vinh sức mạnh và niềm tự hào của mỗi người Việt Nam, của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhưng đâu đó, vẫn cất lên tiếng nói từ những người mang ý thức hệ xa lạ với nhân dân và dân tộc mình, coi đó là ngày “quốc hận” – một cái nhìn sai lạc và xuyên tạc sự thật lịch sử, đi ngược lại tinh thần khoan dung, đồng thuận, đoàn kết của toàn dân ta; tự reo rắc hận thù, chia rẽ, ngược với trào lưu lịch sử. Song, sự thật những gì diễn ra ở miền Nam suốt hai thập kỷ đã tự nó nói lên tất cả về cái tồn tại trong quá khứ của chính thể Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên. Đã không có độc lập, tự chủ thì chỉ là lệ thuộc. Giải phóng miền Nam, xóa bỏ một trật tự lỗi thời, một sản phẩm trái mùa của lịch sử là một thắng lợi của chính nghĩa, đem lại độc lập, tự do thật sự cho nhân dân. Nuối tiếc cái đã lùi vào dĩ vãng để gieo rắc ý thức “quốc hận” là xa lạ với chính đồng bào, dân tộc mình. Tư tưởng, quan điểm đó nếu không phải là sự nuôi dưỡng, kích động sự thù địch, chia rẽ dân tộc một cách có chủ đích thì cũng là một nhận thức mơ hồ về sự thật lịch sử, đều tiếp tay cho kẻ thù, có hại cho tinh thần hòa hợp, đoàn kết dân tộc, cần phải phê phán. Đó là điều thứ hai cần nói tới trong tư duy phê phán của chúng ta.
Lại có cách nhìn lệch lạc khác, cho rằng, Chiến thắng 30-4-1975 và sự nghiệp kháng chiến của dân tộc ta ròng rã mấy thập kỷ là cái giá phải trả quá đắt, là một sai lầm, làm cho dân tộc đau thương, chậm phát triển, trách nhiệm ấy họ quy cho Đảng ta, cho con đường mà Hồ Chí Minh lựa chọn. Đây cũng lại là một nhận thức phi lịch sử, muốn phủ nhận chiến thắng của nhân dân ta, đồng thời là phủ nhận cả lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH mà chúng ta đã lựa chọn, kiên trì theo đuổi. Cách nhìn ấy muốn đánh đồng người chiến thắng và kẻ thất bại, xóa nhòa mục đích, tính chất, bản chất của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự sụp đổ không sao tránh khỏi của chế độ ngụy quyền Sài Gòn với hình thức chính thể “Việt Nam Cộng hòa” trong cơn bão táp cách mạng giải phóng miền Nam 30-4-1975 là bằng chứng không thể chối cãi về sự phá sản, thất bại của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Đó là sự phá sản, thất bại của các thế lực xâm lược bên ngoài, hòng áp đặt ách thống trị, nô dịch, áp bức và bóc lột nhân dân ta ở miền Nam, được ngụy trang và biện minh bằng những lời lẽ tốt đẹp, những “học thuyết” và “chính sách” tô vẽ cho dân chủ, tự do, cho tiến bộ và phát triển đầy giả dối theo hệ giá trị của Mỹ.
Chiến thắng 30-4-1975 là kết quả tiệm tiến và nhảy vọt của biết bao tích lũy, trải nghiệm, hy sinh của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực của toàn dân, toàn quân. Đó là một tất yếu, sự lựa chọn của lịch sử dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam, vì đã có đường lối cách mạng đúng đắn. Sẽ không có thành công nào, khi mà đường lối, chính sách đi ngược lại nguyên vọng, lợi ích của nhân dân. Đó là thực tế. Tỏa sáng từ Chiến thắng đó ta thấy, không có sự lãnh đạo của Đảng, được dẫn dắt bởi thiên tài tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể có thành quả chiến thắng và cơ đồ sự nghiệp như ngày nay. Đó là điều thứ ba cần phải nhấn mạnh trên tinh thần trọng sự thật và lẽ phải.
Dù khép lại quá khứ nhưng không được quên quá khứ, càng không thể phủ nhận và phỉ báng lịch sử. Sự tàn bạo, phi nhân, tội ác mà thực dân, đế quốc và những thế lực do chúng nuôi dưỡng, thành công cụ của chúng để đàn áp cách mạng và nhân dân là sự thật lịch sử không thể nào quên, cho dù, trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, đối thủ thù địch trong quá khứ có thể trở thành đối tác cùng hợp tác, cùng tồn tại. Vì vậy, chúng ta không cho phép bất cứ ai, dù với cương vị gì, “nhà văn”, “nhà nghiên cứu”, “nhà biên khảo”,… được bóp méo, xuyên tạc giá trị của Chiến thắng lịch sử này.
Nói tới Chiến thắng 30-4-1975 là để khêu gợi lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc chân chính chứ không hề làm đau đớn thêm vết thương do cuộc chiến tàn bạo của đế quốc Mỹ gây ra, không phải làm phân ly thêm khối cộng đồng dân tộc bởi một sự cực đoan ý thức hệ như có người lầm tưởng do thiếu hiểu biết. Dân tộc Việt Nam nổi bật các đức tính anh hùng, bất khuất, bao dung, nhân ái, trọng sự hòa hiếu, đoàn kết đồng thuận. Chính những đức tính mang giá trị nhân văn và sâu sắc này cũng đã tạo nên sức mạnh của chiến đấu và chiến thắng.
Ngày nay, đất nước ta đã đi qua chặng đường đổi mới gần 30 năm. Chiến thắng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc cũng đã gần 40 năm. Các thế hệ sinh thành trong bối cảnh ấy đã tận hưởng giá trị của hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc mà các thế hệ cha anh đã phải hy sinh bằng máu của mình. Thế và lực của Việt Nam đang ở vào thời kỳ sung sức đầy triển vọng. Đổi mới nhằm đạt tới “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như tâm nguyện của Bác Hồ. Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó, hơn lúc nào hết dân chủ – đoàn kết – đồng thuận là động lực cho sự phát triển của nước ta, cho dân tộc Việt Nam vươn tới trình độ một dân tộc thông thái, xã hội Việt Nam là một xã hội văn hóa cao. Cán bộ, đảng viên tích cực học tập, rèn luyện theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) để Đảng luôn xứng đáng với vai trò là người lãnh đạo.
Chiến thắng 30-4-1975 sẽ mãi mãi tiếp thêm năng lượng, tinh thần, phát huy các giá trị sáng tạo, cổ vũ nhân dân và dân tộc ta đi tới, hướng tới phát triển bền vững và hiện đại hóa trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Theo Tap chi Quoc phong toan dan