Bên bờ hạnh phúc

VI. MIẾNG ĂN HAY LÀ TRIẾT LÝ CỦA CUỘC ĐỜI

1/ Thói đời qua miếng ăn

Có người quần quật suốt ngày cũng vì miếng ăn. Có người ty tiện, bán cả danh cả tiếng, cầu cạnh cho được bả vinh hoa, mồi phú quý. Hạng người này có biết đâu “Miếng thịt là miếng nhục”. Suốt đời chạy theo miếng ăn, sống chết vì miếng ăn, coi miếng ăn là tuyệt đích :

– Miếng ăn là miếng tồi tàn

Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.

Trái lại cũng có người trước danh lợi vẫn giữ được nếp sống trắng trong. Họ quan niệm đời một cách khác, vì họ cho đời lẫn lộn đắng cay, ngọt bùi. Sở dĩ người ta giành giật, xâu xé nhau vì đời là trường tranh đấu :

– Sự đời nghĩ cũng nực cười

Một con cá lội, mấy người buông câu.

Trong thiên hạ, nhiều người tranh nhau từng miếng ăn, nói xấu, hãm hại nhau, tìm cách dìm người khác xuống :

– Trâu cột thì ghét trâu ăn

Quan võ thì ghét quan văn quần dài.

– Bậu chê qua ở rẫy ăn còng

Bậu về ở chợ, ăn ròng mắm nêm.

Hơn nữa, ngoài chợ đời thì thiếu chi người gian trá, bịp đời, sống trên lưng người, thuộc vào phường “treo đầu dê, bán thịt chó”. Họ còn lắm mồm lắm miệng, nói ngược nói xuôi, chê khen vô lối :

– Cá không ăn câu chê rằng cá dại

Cá mắc câu rồi nói tại tham ăn.

Tuy nhiên, có khi tranh giành nhau đến trầy vi tróc vảy mà chung quy vẫn hoài công, vì kết quả thu được chẳng là bao :

– Sá chi một nải chuối xanh

Năm bảy người giành cho mủ dính tay.

Thật là một chuỗi cười trào lộng pha vị chua chát, như chửi vào mặt bọn buôn danh bán tiếng, suốt đời chạy theo cái bóng hư danh? Ý tưởng này nhắc ta nhớ đến quan niệm về cuộc đời của nhà thơ Lý Bạch cho rằng, đời chỉ là một giấc mộng lớn, cần gì phải lao đao, lận đận (Xử thế nhược đại mông/ hồ vi lao kỳ sinh?).

Câu ca dao sau đây cũng giúp ta suy nghĩ nhiều về thái độ giả dối của những người chỉ tha thiết nghĩ đến quyền lợi của bản thân mình thôi :

– Cơm ăn không hết thì treo

Việc làm không hết thì kêu xóm làng.

Cuối cùng, qua miếng ăn, ta thấy ca dao tục ngữ cũng bày ra hạng người vong bổn, chỉ biết mới chuộng cũ vong, chẳng khác chi :

– Có chả, em tình phụ xôi

Có cam phụ quýt, có người phụ ta.

– Ăn cháo đá bát.

2/ Thái độ đối phó

Cuộc đời quả thật phiền toái và đắng cay. Cho nên, dựa trên kinh nghiệm, chúng ta phải có thái độ đối phó như thế nào, phải khôn ngoan xử thế làm sao cho hợp lý.

Ca dao tục ngữ dạy ta sống là phải đấu tranh, phải chịu đựng gian khổ mới có thể mưu sinh dễ dàng.

– Có khó mới có miếng ăn

Ngồi không ai dễ mang phần tới cho.

– Muốn ăn phải lăn vào bếp.

Làm sao mà ăn không, ở vì được trong khi mọi người đếu lấy “bát mồ hôi đổi bát cơm”?

Thành thử, khi ra đời, phải tập luyện cho cơ thể quen thuộc với nắng mưa, chịu đựng gian khổ :

– Đã từng ăn bát cơm đầy

Đã từng nhịn đói cả ngày chẳng ăn.

Nếu có gặp được cảnh sống thư thả, sung túc thì phải nghĩ đến những lúc thiếu thốn và một ngày mai có thể bị sa cơ thất thế :

– Được mùa chớ phụ ngô khoai

Đến năm có hạn lấy ai bạn cùng?

Thái độ có hậu, chung thủy như trên rất hợp với tinh thần nhân nghĩa của người Á Đông. Còn muốn đảm bảo thành công ở đời thì ta phải khôn ngoan xử sự, có óc thiết thực, không bao giờ chuộng những cái gì hão huyền :

– Sống thời con chẳng cho ăn

Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.

Cái lối sống thiết thực ấy phải là lối sống có điều độ, hợp với lẽ phải :

– Anh ơi, uống rượu thì say

Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo.

– Ăn lắm thời hết miếng ngon

Nói lắm thời hết lời khôn, hóa rồ.

– Rượu lạt uống lắm cũng say

Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

Tuy rằng phải tùy cơ ứng biến, phải “Ăn theo thuở, ở theo thì”, nhưng con người trung nghĩa thì bao giờ cũng phải chuộng sự thật, tránh thái độ gian tham, giả dối :

– Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối.

Những câu phương ngôn trên diễn tả những món ăn, vật uống đã là những lý luận mẫu mực, xác đáng dạy ta phép xử thế thực tiễn.

3/ Bổn phận trong miếng ăn

Tuy là phải “vắt đầu cá, vá đầu tôm”, một nắng hai sương để chạy từng bữa ăn, nhưng con người còn có cái gì quý hóa, thiêng liêng hơn, đó là bổn phận :

– Anh đi, em ở lại nhà

Hai vai gánh vác mẹ già con thơ

Lầm than bao quản muối dưa

Anh đi, anh liệu chen đua với đời.

Người con trai ra đi, vẫy vùng bốn phương cho phỉ chí nam nhi, cũng yên tâm vì có được người vợ hiền ở nhà chăm sóc gia thất, phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi dạy con thơ. Món ăn thanh đạm muối dưa nói lên được cái tình nghĩa sắt son của người đàn bà.

Hơn nữa, người con gái còn mang nặng bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ, kính nhường anh em, giữ hòa khí trong gia đình :

 – Nhà em có vại cà đồng

Có ao rau muống, có đầy chĩnh tương

Dẫu không mỹ vị cao lương

Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em

Một nhà vui vẻ êm đềm

Đói no trong cảnh không thèm lụy ai.

Đối với người thân ta phải có bổn phận đã đành rồi, còn đối với vô số người vô danh trong xã hội đã góp phần vào đời sống công cộng, thì hết lòng tri ân :

– Ăn trái nhớ kẻ trồng cây

Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay tối ngày.

Thái độ biết ơn trên cũng là thái độ cố hữu của người Việt, là bổn phận của người dân được hưởng thụ, vẫn ghi nhớ công đức đối với các bậc tiền bối đã khai sáng đất nước.

4/ Khí tiết của miếng ăn

Như vậy, con người lấy nhân nghĩa mà xử sự ở đời, sống phải có trước có sau mặc dầu gặp cảnh nghèo khó, gian khổ phải luôn luôn thủy chung như nhất :

– Tay cầm đĩa muối sàng rau

Thủy chung như nhất, sang giàu mặc ai.

Cao hơn nữa, cái khí tiết trung nghĩa được phát lộ trong mấy câu ca dao thời thế sau đây. Trước cám dỗ vật chất, trước những miếng ăn thịnh soạn của tân trào mang lại, con người trung nghĩa quyết cam phận thanh bần :

– Văn minh gặp buổi Lang Sa

Tri âm thì ít, trăng hoa thì nhiều

Khuyên ai giữ chí về sau

Đừng còn tập tễnh Tây, Tàu mà no

Thà rằng chịu đói no rau cháo

Lấy chồng nghèo giã gạo nấu cơm

Chẳng hơn thịt cá đầy mâm

Mà đem thân thế ra thân thế này…  

Những người tiết nghĩa như vậy bao giờ cũng chọn cái gì trong trắng, cao quý và ghét đời ô trọc gian tham :

– Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm

Ngọt như cam sành héo cuống anh chê.

Ai lại không thích ăn sung mặc sướng, sống đời vương giả, đầy đủ và tiện nghi? Tuy nhiên, nếu sống được như vậy mà phải nô lệ tân trào thì trở về với đời sống đạm bạc còn hơn :

– Canh cải mà nấu với gừng

Chẳng ăn thì chớ, xin đừng chê bai.

Cũng như người con gái, chống lại chế độ đa thê, thà chịu cảnh nghèo nàn chứ nhất định không chịu lấy chồng chung :

– Đói thì ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.

V. GIÁ TRỊ TINH THẦN

Để kết luận, ta thấy miếng ăn diễn tả trong câu ca dao tục ngữ thật là quan trọng, có thể chế ngự được tình cảm và lý trí, chi phối cả đời sống con người, có thể hạ phẩm giá con người cũng như gây xô xát ngoài xã hội. Tuy nhiên, miếng ăn không có giá trị tuyệt đối, chưa phải là cứu cánh cao quý nhất của con người, vì ở đời còn có điều nhân nghĩa, còn có niềm thủy chung là giá trị tinh thần cố hữa quý hóa của người dân Việt :

– Được mùa chớ phụ ngô khoai

Đến năm có hạn, biết ai bạn cùng.

Con người phải có hậu, không bắt chước những kẻ “có mới thì nới cũ”, biết trọng nghĩa khinh tài và nhất định không bao giờ :

– Xưa nay ăn đâu ở đâu

Bây giờ có bí, chê bầu rằng hôi.

Lưu Văn – Tạp chí Tiến thủ, 1963

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *