3/ Cái thời
Cái thời mà người Khmer gọi là xà-ngôn gồm có hai loại : loại đặt đứng và loại đặt nằm. Người Khmer gọi là xà-ngôn ngồi và xà-ngôn nằm với nghĩa ngồi chờ, nằm im chờ. Cái thời được bện từ những nan tre. Loại đặt đứng có dáng như cái nơm, cao khoảng 67 cm, đường kính miệng 13 cm, đường kính đáy 30 cm. Miệng để trống, còn đáy kín. Cách đáy khoảng 30 cm, người ta khoét gỗ gắn hom. Hom gồm 2 đoạn. Đoạn trong dài 9 cm, đường kính miệng 14 cm, đáy túm. Đoạn ngoài dài 50 cm, đường kính miệng 32 cm. Loại đặt nằm giống cái xà-di ở Vĩnh Long, thường dùng để bắt chuột, còn ở Đồng Tháp Mười chuyên dùng bắt cá rô. Cái thời nằm cũng được bện từ những nan tre, dài khoảng 100 cm, có gắn một hom ở miệng, đường kính khoảng 30 cm, đặt theo những đường nước. Cái thời có thể bắt nhiều loại như cá lóc, cá rô, cá sặc, tôm tép…
4/ Nơm
Nơm là một dụng cụ bắt cá truyền thống của người Việt. Nơm có dáng hình nón cụt, được bện bằng tre, bện thưa dùng úp cá. Nơm cao hay thấp còn tùy thuộc vào độ cao của nước trong ruộng, trung bình khoảng 50 – 60 cm. Phần đầu trên có gắn một khoanh gỗ tròn hình vành khăn, đường kính khoảng 13 cm để tay cầm nơm và cũng để đưa tay vào bên trong bắt cá. Phần dưới đầu hom tre được vót nhọn, miệng nơm có đường kính khoảng 35 – 50 cm. Khi úp cá, người ta không úp theo đường thẳng, mà úp hai bên, vừa đi vừa úp, bên phải xong bước lên úp bên trái và liên tục như thế. Khi úp trúng cá lóc, cá chạy mạnh đụng vào nơm, đó là dấu hiệu úp trúng cá. Người ta ấn mạnh nơm xuống cho cá không chui ra được rồi đưa tay vào bắt cá.
Ở huyện Trà Ôn – tỉnh Vĩnh Long còn sử dụng một loại nơm đặc biệt chuyên để úp cá trê bầy. Loại nơm này về dáng cũng giống nơm bình thường nhưng kích thước lớn, đặc biệt trong nơm có gắn lưới cá. Nơm cao 80 cm, đường kính miệng 80 cm. Vào những đêm khoảng tháng 9 – 10, cá trê cha mẹ dẫn bầy con đi ăn trong ruộng lúa (cá trên nhỏ khoảng 5 con/ kg). Người đi nơm nghe tiếng cá trê chép miệng, định hướng bầy cá đi rồi chặn đầu bầy cá, đợi đến nhảy xuống úp cá. Lúc đó, cá bị kẹt trong nơm và dính vào lưới. Người đi nơm cá đưa tay vào nơm, kéo lưới gỡ bắt từng con một.
5/ Xà-no, xà-búp
Xà-no có hai loại : loại đâm ếch và loại đâm rắn. Xà-no đâm ếch có cán bằng cây trúc dài 300 cm, đầu xà-no là một đoạn sắt dài khoảng 150 cm, đường kính to bằng cây căm xe honda, có một ngạnh. Xà-no đâm chuột, rắn có cán bằng cây tầm vông dài 200 cm, phần lưỡi là một đoạn sắt 6 ly, dài 15 cm, có một ngạnh. Xà-búp là dụng cụ để đâm cá, thường dùng đi soi cá (đâm cá) vào ban đêm. Xà-búp có cán làm bằng gỗ, dài 120 cm, trên đầu làm ngang, dài khoảng 15 – 20 cm, gắn 10 răng làm bằng sắt to bằng căm xe đạp, mỗi lưỡi dài 7 – 10 cm.
6/ Ống trúm
Ống trúm là ngư cụ chuyên dùng để bắt lươn. Ống trúm được chế tạo từ một đoạn tre dài khoảng 120 -150 cm, gồm 3 hay 4 lóng tre. Đoạn tre này chỉ chừa lại hai mắt chót, các mắt kia được đục thủng thông nhau. Ở gần đáy trúm, người ta đục một rãnh thông hơi để khi lươn vào không bị chết ngộp. Đầu trúm có gắn hom để lươn vào được mà không ra được. Hom được giữ chặt nhờ dây ghim dài xuyên qua một bên mép khoảng 1/3 đường kính ống và cũng để cắm xuống đất giữ trúm theo hướng nghiêng phần miệng dưới nước, phần đáy bên trên. Mồi đặt trúm là cua đầy giã nhỏ, hoặc trộn bùn đất – cá sặc – cá thòi lòi nấu chín.
Một người đặt hàng chục ống trúm. Đặt trúm trước lúc trời tối để sáng hôm sau giở trúm.
7/ Chĩa lươn
Chĩa lươn là một dụng cụ, như tên gọi, chuyên dùng để đâm lươn. Chĩa lươn có cán là một đoạn gỗ tròn dài 10 cm, thân là một đoạn sắt 10 ly dài 90 – 100 cm, gắn thẳng góc với cán. Đầu chĩa có hai mũi nhọn.
TS Đặng Văn Thắng – Theo sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long