Sự bất định toàn cầu hiện nay khiến cho việc kiểm soát mối quan hệ song phương vốn bất đối xứng càng khó khăn hơn. Cuộc tranh luận xung quanh một số dự án khai thác khoáng sản là minh chứng rõ nhất…

Hài hoà lợi ích

Điều may mắn trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là các nguyên tắc và thực tiễn quan hệ hai nước khi bình thường hóa khá tương thích với đòi hỏi của kỷ nguyên mới. Khuôn khổ 16 chữ được đưa ra tháng 2/1999 vẫn có thể áp dụng. Cam kết song phương về 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình được đưa ra năm 1954 đã giúp duy trì khuôn khổ quan trọng cho mối quan hệ này.

Cụ thể hơn, việc thiết lập đường biên giới trên bộ, xử lý sự khác biệt trên Vịnh Bắc Bộ và quyết định về nguyên tắc việc hợp tác cùng phát triển trên biển Đông đều rất quan trọng không chỉ ở việc điều đó giúp giảm thiểu những điểm xung đột, mà còn vì sự thành công trong đối thoại ở các vấn đề nhạy cảm đã tạo khuôn khổ cho tương lai.

Hơn nữa, mối quan hệ bất đối xứng giữa hai nước đặt ra những thách thức đặc biệt với mỗi bên. Với Trung Quốc, nước lớn hơn, thách thức chính là khẳng định lại việc Trung Quốc tôn trọng bản sắc và chủ quyền của nước nhỏ hơn.

Bởi vì nước lớn có khả năng xâm phạm lợi ích của nước nhỏ, nước lớn phải thể hiện sự tôn trọng chủ quyền của nước nhỏ và thái độ sẵn sàng đối thoại hơn là “ăn nạt”. Muốn như vậy, nước nhỏ phải thuyết phục nước lớn rằng nước nhỏ tôn trọng sự khác biệt về năng lực và không có ý định thách thức nước lớn. Nói ngắn gọn, nước nhỏ phải tôn kính (deferential) nước lớn.

Tuy nhiên, sự tôn kính này không đồng nghĩa với việc nước lớn kiểm soát nước nhỏ hoặc chi phối mối quan hệ. Thực tế hoàn toàn ngược lại. Nước nhỏ chỉ có thể thể hiện sự tôn kính nếu nước lớn tôn trọng lợi ích và chủ quyền của nước nhỏ. Sự trao đổi giữa một bên là sự tôn kính của nước nhỏ và bên kia là sự công nhận chủ quyền của nước lớn với nước nhỏ sẽ giúp cho khả năng đối thoại trong tình trạng bất tương xứng có thể diễn ra bình thường.

Một mối quan hệ song phương bình thường mang lại lợi ích cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Mặc dù có vẻ như nước lớn có thể gặt hái nhiều hơn từ mối quan hệ này bằng việc “ăn nạt” nước nhỏ hơn là một sự thỏa hiệp, tuy nhiên thực tế, nước nhỏ hoàn toàn có thể kháng cự lại nước lớn. Không quốc gia nào có lịch sử lâu dài về sự kháng cự của chủ nghĩa yêu nước như Việt Nam. Một khi tình trạng đối đầu xảy ra, cả Việt Nam và Trung Quốc đều mất đi cơ hội để có được mối quan hệ hai bên cùng có lợi.

Cái khó của nước nhỏ

 

Bất chấp cam kết theo lệ, luôn có sự va chạm giữa xu hướng muốn tự khẳng định một cách tự mãn của Trung Quốc và mối lo ngại của Việt Nam về khả năng bị tổn thương do nước lớn.

Thương mại với Trung Quốc cũng là một vấn đề nhiều mặt với Việt Nam, kể từ khi hai nước nối lại quan hệ thương mại năm 1990. Một mặt, các sản phẩm mà khách hàng mong muốn bắt đầu tràn ngập, cùng với các sản phẩm phục vụ cho sản xuất như thiết bị…

Mặt khác, việc cạnh tranh với các sản phẩm của Trung Quốc đã gây hại cho nền công nghiệp trong nước của Việt Nam. Việc có một “cửa hàng lớn” ngay bên cạnh là điều tốt phục vụ nhu cầu mua sắm, nhưng sẽ là điều tồi tệ với “cửa hàng” liền kề.

Sự bất định toàn cầu hiện nay khiến cho việc kiểm soát mối quan hệ song phương vốn bất đối xứng càng khó khăn hơn. Cuộc tranh luận xung quanh một số dự án khai thác khoáng sản là minh chứng rõ nhất…

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan trước đầu tư của Trung Quốc vào tài nguyên. Năm 2005, Mỹ đã ngăn chặn việc bán unocal cho Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia của Trung Quốc CNOOC và hiện nay, Australia đang vật lộn với câu hỏi liệu nên cho phép Trung Quốc được đầu tư bao nhiêu vào khai thác tài nguyên của nước này. Với Việt Nam, mối quan ngại này còn được khuếch đại do sự mất cân bằng giữa Việt Nam với người láng giềng khổng lồ.

Nhưng nếu kinh tế thế giới ổn định hơn, Việt Nam sẽ không quá lo lắng. Nhưng tình hình hiện nay làm tăng lợi ích của mỗi cơ hội, đồng thời cũng tăng sự nghi ngờ và lo lắng.

Vị trí của định chế đa phương

Sự gia tăng va chạm này có thể được giảm bớt nhờ các thể chế đa phương toàn cầu và khu vực. Nếu Việt Nam không thể gia nhập WTO trước cuộc khủng hoảng hiện nay, Việt Nam sẽ ở thế khó khăn hơn nhiều trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, những yếu tố giống nhau trong thu hút đầu tư đã giúp Việt Nam thu hút được các DN muốn đa dạng thị trường, không muốn đặt cược vào một chỗ.

Các thỏa thuận và thể chế đa phương tạo nên sự chằng chịt các kì vọng quốc tế chung, giúp giảm thiểu mối quan ngại về khả năng biến động của quan hệ song phương.

Tổ chức đa phương quan trọng nhất trong việc tạo vùng đệm cho quan hệ song phương Việt Nam – Trung Quốc là ASEAN và rộng hơn, là ASEAN +3.

Thương mại nội khối ASEAN chỉ chiếm ¼, và với tư cách là một tổ chức đồng thuận, ASEAN có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo không khí hợp tác mang tính khu vực hơn là những chính sách mà tổ chức này đưa ra. Theo thời gian, ASEAN sẽ chuyển sang không chỉ chú trọng môi trường chính trị khu vực Đông Nam Á, mà cả hình ảnh ra bên ngoài của khu vực này.

Việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995 mang lại hiệu quả tích cực cho quan hệ song phương Việt – Trung. Nó thúc đẩy Mỹ đi đến công nhận Việt Nam, giúp Việt Nam tự tin trong việc có một mối quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc. Không chỉ cân bằng lại quan hệ với Trung Quốc, an ninh khu vực (và việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ) giúp Việt Nam cảm thấy ít bị cô lập và từ đó, ít rủi ro hơn trong mối quan hệ bất đối xứng.

Cách tiếp cận mềm, trên cơ sở đồng thuận của ASEAN khiến nhiều người dự báo về sự tan rã của tổ chức này khi đối mặt với các cuộc khủng hoảng lớn. Tuy nhiên, khác với các liên minh quân sự như NATO, chức năng của ASEAN không phải là chống lại mối đe dọa cụ thể nào ở bên ngoài, mà nhằm thúc đẩy sự điều chỉnh của khu vực trong tình hình mới…

 

Việc hợp tác trong lĩnh vực kinh tế của ASEAN rất yếu trước khi khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra, nhưng kể từ Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 6 tổ chức tại Hà Nội năm 1998, các thành viên đã cam kết về một khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) và quan trọng hơn, đóng một vai trò chủ động hơn trong phát triển quan hệ khu vực với Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc (ASEAN + 3).

Kết quả ngoạn mục nhất của việc này là việc khu vực tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc đã được tuyên bố vào năm 2002 và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2010 – 2015 và hiện nay vẫn theo đúng kế hoạch.

Hợp tác kinh tế đã được bổ sung bằng lĩnh vực an ninh và chính trị với Tuyên bố về ứng xử trên biển Đông được kí vào năm 2002 và việc Trung Quốc tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (thành viên đầu tiên ngoài ASEAN) năm 2003.

Sự tham gia của Việt Nam trong các sáng kiến của ASEAN đã giúp tái cam kết sự tôn trọng của Việt Nam với Trung Quốc cũng như giúp Việt Nam có “chiếc ô” khu vực cho chính sách song phương với Trung Quốc của mình.

Liệu ASEAN sẽ phản ứng như thế nào với cuộc khủng hoảng hiện nay? Với đà của ASEAN và sự hội nhập kinh tế châu Á nói chung từ năm 2002, chí ít, ASEAN sẽ tiếp tục tồn tại. Thậm chí ngay cả khi chủ nghĩa bảo hộ xuất hiện trở lại các nước phát triển, ASEAN và Đông Á có thể hợp tác và cùng nhau xử lý.

Các nước có chung những vấn đề kinh tế như sự bất định của tỷ giá đồng USD, sự sụt giảm đầu tư nước ngoài và việc làm, sự suy yếu của các thị trường tiêu dùng ở các nước phát triển, và nhu cầu xây dựng nền tảng tiêu dùng trong nước, một loạt các sáng kiến có thể sẽ được áp dụng.

Trong quan hệ ASEAN – Trung Quốc, có thể ASEAN sẽ hành động nhiều hơn để khuyến khích xuất khẩu sang Trung Quốc và thu hút đầu tư của Trung Quốc vào khu vực. Những hoạt động như vậy sẽ tăng cường mối quan tâm đối với Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, một sáng kiến của ASEAN được khởi động vào 2005 và trong tương lai, một cộng đồng Đông Á có thể hình thành.

Kết luận

Trong bối cảnh hiện nay, một chiến lược khôn ngoan là phải tránh rủi ro. Hiện nay, những tác động tiêu cực của khủng hoảng là không thể tránh được với cả Việt Nam và Trung Quốc do cấu trúc của thương mại với bên ngoài.

Hai nước không phải là nguyên nhân gây nên sự bất ổn toàn cầu hiện nay, do đó, nếu vượt qua thách thức này, hai nước sẽ sớm hồi phục và thịnh vượng.

Với vấn đề lạm phát và sự lệch lạc của công nghiệp trước mặt, Việt Nam phải đối mặt với thách thức định hướng lại chiến lược phát triển nhắm vào thị trường nội địa và các nước thu nhập trung bình. Thị trường tiềm năng và có thể tiếp cận nhất chính là Trung Quốc, và nước này là hình mẫu của việc làm thế nào mở rộng cơ hội thương mại ra bên ngoài.

Trung Quốc ở vào vị trí thuận lợi trong khủng hoảng kinh tế hiện nay. Nước này đã mở rộng thị trường nội địa cũng như thị trường bên ngoài và tiềm lực tài chính của Trung Quốc rất mạnh. Trung Quốc sẽ hưởng lợi từ chiến lược khôn ngoan được triển khai sớm của mình. Thách thức lớn nhất của Trung Quốc là ngăn ngừa khủng hoảng tương lai bằng việc chú trọng vào phát triển bền vững.

Điều may mắn cho cả hai nước là quan hệ Việt – Trung hiện nay ở tình trạng bình thường. Điều này đặc biệt quan trọng với Việt Nam, bởi Trung Quốc có cơ hội vươn ra bên ngoài lớn nhất. Mối quan hệ với Việt Nam cũng quan trọng với Trung Quốc, bởi đó là nền tảng cho lợi ích của cả hai bên.

Tuy nhiên, tình hình hiện nay làm tăng rủi ro cho nước nhỏ trong mối quan hệ bất đối xứng này. Các thể chế khu vực và quốc tế giữ vai trò quan trọng trong việc tạo vùng đệm cho quan hệ song phương. Với Việt Nam và Trung Quốc, ASEAn và các sáng kiến khu vực lớn hơn của tổ chức này sẽ tạo khuôn khổ hữu dụng để ổn định mối liên hệ song phương và tăng cường hội nhập.

Brantly Womack (H.Phương lược dịch) – Theo TVN
*Các title phụ do Tuần Việt Nam đặt

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *