Con đường đẹp nhất thành phố nằm im lìm giữa hai hàng cổ thụ ẩn hiện những biệt thự được miêu tả chung là “triệu đô”. Muốn hình dung chúng như thế nào, có một cách là vào trang quảng cáo trên mạng Internet của một công ty bất động sản bất kỳ. Ở đó có thể tìm nhà đang rao bán trên khắp nước Mỹ, giá từ vài trăm ngàn đến vài chục triệu, kèm hình hay một đoạn phim ngắn về nội thất và cảnh quan chung quanh. Nhà “bạc triệu” thường nhấn vào những đặc sắc như phòng ngủ chủ nhân có ban công nhìn ra núi, rừng, sông, biển, phòng tắm rộng rãi hiện đại, phòng khách với lò sưởi, sân vườn với hồ bơi, vị trí đắc địa, có cảnh trí ngoạn mục. Riêng cái cảnh trí cận thủy, như bờ sông, bãi biển, mép hồ, có thể chiếm mười phần trăm đến một phần tư giá trị căn nhà.

Cảnh trí ăn tiền của nhà hai bên con đường này chính là tự thân con đường. Nó uốn lượn nhẹ nhàng ở lưng đồi, lòng đường không rộng, rợp bóng cây, lề đường lát gạch đã mòn, cỏ mọc chen thành những nét loằng ngoằng xanh biếc. Bên dốc cao, những bậc thang dẫn từ mặt đường lên thềm nhà được kiến trúc mỗi nhà một kiểu, chỉ riêng những kiểu bậc thang ẩn hiện giữa hoa cỏ và những lùm cây đã tạo được nhiều bức tranh xinh xắn nhìn hoài không chán. Những con đường viền quanh đồi cong cong, song song với nhau theo độ cao thấp, ít có đường ngang. Để đi tắt từ đườg này qua đường kia có những lối nhỏ gọi là lối đi của bồi bếp – vú em, thường sát ranh ngôi nhà, có khi ở ngoài tường rào, dẫn đến dãy nhà sau, tách biệt với ngôi nhà chính bằng một khoảnh sân rộng, là chỗ ở cho những người giúp việc nhà. Lối đi này kín đáo giữa những vòm hoa rực rỡ ngát hương, những chòm cây kiểng tỉa tót công phu, hoặc một tường đá bám đầy dây trường xuân lưu niên, đẹp như lối thiên thai trong cảnh mộng.

Dừng chân ở đầu một lối đi râm khuất dưới tán cây mộc lan sum xuê, anh nói với tôi đây là chỗ anh ở hồi còn là sinh viên. Cuối lối đi này có một căn nhà nhỏ cho thuê được sửa sang lại từ gian nhà dành cho gia nhân vốn đã bị bỏ trống một thời gian khi các chủ nhân vì những lý do khác nhau không duy trì việc nuôi người ăn kẻ ở trong nhà 24/24 nữa. Những việc nấu nướng, dọn dẹp, làm vườn, giữ em… đều có các công ty dịch vụ cung cấp người làm chuyên nghiệp tính thù lao theo giờ hay việc. Ngoài ra, máy móc hiện đại khiến cho việc nhà đơn giản, không nhọc nhằn, không mất nhiều thời gian, người thuộc giới trung lưu có thể tự làm lấy, khi giá dịch vụ ngày một cao và ngày càng khó tìm được gia nhân như ý. Chủ nghĩa cá nhân lan sâu rộng trong cách sống và suy nghĩ cũng khiến người ta sống kín đáo cách biệt hơn, không muốn có người chung quanh, dù là bếp bồi, dòm ngó đời sống riêng của mình. Chủ nhân căn nhà này là một bà cổ quái, đã cho anh ở trọ trong khu nhà gia nhân hoang phế với một giá tiền thuê tương đối rẻ.

Anh làm vườn và thiết kế vườn kiểng cho các ngôi nhà quanh vùng để có tiền ăn học. Nhờ công việc và chỗ ở trọ ngay trong thế giới những ngôi nhà “bạc triệu” này, anh hiểu biết ít nhiều về giới trung/ thượng lưu Mỹ, lối sống Mỹ, và giấc mơ Mỹ. Anh cũng có lúc ấp ủ một giấc mơ, loại điển hình của những “câu chuyện thành đạt” : từ tay trắng tạo dựng sự nghiệp của riêng mình bằng ý chí tranh đua và lao động miệt mài. Có lúc, công việc thiết kế vườn kiểng của anh phát đạt đến độ có thương hiệu, anh nhận được nhiều hợp đồng, thuê khá nhiều công nhân, chỉ một bước nhích sang hẳn công việc kinh doanh toàn thời gian, anh sẽ trở thành doanh nhân, chủ nhân một doanh nghiệp và một ngôi nhà, có thể, tương tự như những ngôi nhà to lớn đẹp đẽ trong những giấc mơ.

Tại sao không? Tại sao không nắm lấy vận may mà thực hiện giấc mộng giàu sang? Giàu sang chẳng phải sung sướng sao? Làm chủ chẳng phải quyền uy hơn? Làm ra tiền nhiều chẳng phải là thước đo thành đạt, là giá trị nhân cách, trong thế giới này? Tại sao anh quyết định sang nhượng công việc hái ra tiền cho người khác đúng lúc đang mở mang thịnh vượng? Không phải một, hai người, mà nhiều người đã hỏi anh tại sao có một quyết định bẻ ngoặt đường đời của mình ra khỏi đại lộ thênh thang mà đại đa số thiên hạ xưa nay cùng lao tới? Những người hỏi không bao giờ có được câu trả lời.

Trở lại nơi anh đã sống mười năm tuổi trẻ, anh dẫn tôi đi xem những khu vườn ngày xưa anh từng chăm sóc, những thềm đá anh đã sắp đặt, rừng đỗ quyên trên sườn đồi. Anh đã dày công nghiên cứu và bố trí sao cho nguyên một vạt đồi trồng nhiều loại đỗ quyên khác nhau về chiều cao, tán lá, màu sắc, thời gian nở hoa, để khi xuân về, tất cả đều luân phiên phơi bày được toàn bộ sự mỹ mãn của hương sắc, khiến bất cứ ai ngắm cũng phải lòng. Khi có thêm nhiều đề nghị hợp đồng thiết kế vườn hoa trong vùng và cả những vùng khác, công việc chiếm càng lúc càng nhiều thời giờ, lấn vô thời gian đọc sách và suy nghĩ, anh đã thản nhiên vứt bỏ chúng để chuyên tâm tìm hiểu lịch sử, nghiên cứu triết học, thưởng thức thơ ca.

Nghe như điên. Người ta gọi người như anh là những kẻ mơ mộng, hay lý tưởng, hay không thực tế. Bây giờ là thời đại nào? Gia đình vốn biết anh có những chí hướng khác thường. Cha mẹ đã tôn trọng những đam mê của anh, và thật ra đã tạo điều kiện cho anh đeo đuổi chúng. Nhưng đến một lúc, khi anh không còn vị thành niên, thậm chí quá tuổi trưởng thành rồi, mà chưa tạo lập được một mái nhà (vợ con, nhà xe) và một nguồn thu nhập ổn định, các bậc sinh thành tất nhiên lo lắng, càm ràm; và khi những áp lực của họ không hiệu quả, họ tỏ cho anh thấy nỗi thất vọng. Đây mới là áp lực lớn nhất.

Những người như anh thường được gọi là thế hệ di dân một rưỡi. Anh đặt chân đến miền đất hứa ở tuổi thiếu niên, đủ lớn để có một phần ký ức về quê hương gốc mang theo, và còn đủ nhỏ để tiếp thu một nền giáo dục giúp anh hội nhập thuận lợi ở quê hương mới. Anh đủ lớn để biết những vất vả của cuộc sống được tạo dựng lại từ đầu ở một miền đất xa lạ, và ý thức sự hy sinh của cha mẹ. Họ đã gạt bỏ hoặc chôn cất hết những nỗi niềm mơ mộng riêng tư, làm bất cứ công việc gì, bất kể hứng thú cá nhân hay công việc độc hại, làm thêm giờ cuối ngày, nhận thêm việc cuối tuần, kiếm tiền là hoạt động quan trọng nhất, cái gì làm ra tiền là cái đó tốt. Và họ đầu tư tất cả vào những đứa con mà họ kỳ vọng sẽ hoàn tất nốt giấc mơ Mỹ của họ.

Bạn bè một rưỡi của anh vào đại học phần nhiều chọn những ngành thực tế như tin học, kỹ thuật, kinh tế, luật, và nếu gia đình có khả năng đầu tư dài hạn thì ngành Y là lựa chọn chắc chắn khiến cha mẹ rạng rỡ mặt mày. Anh đang học năm thứ hai dự bị Y thì bỏ sang học triết. Không chịu nổi những “lời khuyên” của cha mẹ, anh dọn qua thành phố khác, tự lo thân bằng việc cắt cỏ, làm vườn mướn rồi phát triển thành thiết kế vườn kiểng. Thấy anh “làm ăn khá”, cha mẹ anh, vẫn âm thầm dõi theo bước con đi, cũng mừng, sẵn sàng hỗ trợ vốn liếng để anh lập công ty. Ngờ đâu, anh lại khiến họ thất vọng, và tức giận, một phen nữa, khi “tung hê” con gà giò nắm sẵn trong tay để đuổi theo con phượng hoàng triết học lượn bay trên bầu trời huyễn hoặc.

Thực ra, những quyết định của anh tuy dứt khoát nhưng không hề dễ dàng. Trước và sau một quyết định, có nhiều lần, anh thương thuyết với chính mình để tìm một thỏa thuận, chẳng những với gia đình, mà còn với thực tế cuộc sống. Người ta có thể nuôi dưỡng những ước mơ hoang đường khi ngụp lặn trong cuộc sống thực dụng không? Chẳng hạn, cha mẹ anh, sau ba mươi mấy năm tiêu mòn bản thân cho những tính toán hóa đơn hàng tháng thuế má hàng năm, cộng thêm chút may mắn trong mua bán nhà đất, cuối cùng đã có thể kham nổi kiểu sống mà anh đã từng quan sát trong những ngôi nhà “bạc triệu” của Mỹ : những kỳ nghỉ hàng năm, đi du lịch nước ngoài đem về những quà lưu niệm đặc sản, những bữa tiệc cuối tuần có vài nhân vật tiếng tăm nói chuyện từ xì-can-đan đang nóng trên ti-vi đến hòa bình thế giới, mua thẻ hội viên của vài câu lạc bộ và một vai trò gì đó trong cộng đồng, thỉnh thoảng ra mắt tập thơ hay nhạc có kèm CD tác giả tự đàn hát hay ngâm nga cùng bằng hữu.

Anh biết cha anh đang thực hiện, dù muộn, chí hướng phục vụ nhân loại đồng bào qua những hội đoàn đồng hương, đóng góp cho mấy tổ chức từ thiện đồng tiền kiếm được bằng lao động cả đời. Và mẹ anh đang thỏa mãn sáng tạo nghệ thuật sau khi nhẹ gánh con cái. Họ có lẽ cũng đáng hài lòng tự mãn về cuộc đời họ đã sống. Nhưng anh không thể nào, ít ra là khi hai mươi tuổi, chấp nhận sáng tạo nghệ thuật, văn chương, nghiên cứu triết học, lịch sử như một thứ trang điểm cuộc sống vô nghĩa ở quãng đời thừa của kiếp người. Anh sôi sục niềm đam mê đi tới tận cùng chân thiện mỹ khi, anh tin, khả năng thiên bẩm còn đang ngùn ngụt bốc cháy. Phải lao theo lý tưởng và dâng hiến trước khi cạn kiệt nguyên liệu và ngọn lửa thiêng tắt đi.

Những thương lượng về sau và, ừ, có cả số phần can dự nữa, khiến đường đời anh chọn không thẳng băng, mà ngoằn ngoèo gấp khúc, khi tách ra khi nhập vào cái đại lộ chính thống của thị dân bình thường, để một hôm, mấp mé trên đỉnh của kiếp sống trăm năm, ở vị trí một giáo sư triết học, và cha của một cô gái sắp tốt nghiệp trung học, anh bỗng nhận ra mình đang lập lại đúng y lời của cha mình hồi ba mươi năm trước :

– Con suy nghĩ cho kỹ, văn chương nghệ thuật rất tốn kém, rất đòi hỏi, mà rốt cuộc có thể chẳng được gì.

Cô con gái nhìn cha bằng ánh mắt như mới nhận ra ông lần đầu. Gương mặt cô nghiêm lại, thậm chí đôi mày non trên vầng trán mịn còn khẽ nhíu lại, cô nghiêm trang nói :

– Đương nhiên, tiền bạc là một giá trị cần thiết. Ba hãy đặt khả năng của mình lên bàn, để con cân nhắc với những giá trị khác.

Anh ngộ ra : Con gái anh chẳng những không biết đến cuộc chạy đuổi hụt hơi theo vật chất của ông bà, cũng không bận tâm cuộc vật lộn bất phân thắng bại của anh với tiền bạc. Nó, con cháu của di dân thế hệ một và một rưỡi, thản nhiên nhìn đồng tiền như một giá trị giữa rất nhiều giá trị khác trên thế gian.

Lý Lan
Theo báo Sinh viên số Tết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *