Tôi nghĩ: với "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh đã và đang trên đường tìm về tâm hồn Việt thanh khiết, cao quý được thể hiện qua những vần thơ, những hồn thơ mang đậm hương sắc dân tộc trong một thời đại cơ hồ như bị Âu hóa và nỗi đau lớn nhất của con người Việt Nam lúc bấy giờ là bị làm nô lệ, bị mất nước.
Sau mười năm dõi theo và say mê nghiên cứu "Thơ mới" (từ 1932 đến 1941), Hoài Thanh (cộng tác với Hoài Chân) đã viết xong "Thi nhân Việt Nam" trong một căn nhà nhỏ ở số 5b đường Phó Đức Chính, Tp Huế. Đó là một căn nhà (kiểu nhà cấp 4) thuê của một viên đội xếp.
Hoài Thanh vừa đi dạy học ở Trường Thuận Hóa vừa cắm cúi viết "Thi nhân Việt Nam" trong tiếng bễ thụt phù phù và tiếng búa đập chát chúa của nhà hàng xóm làm nghề lò rèn. Sách viết xong cuối năm 1941 được ông Hoài Chân (tức Nguyễn Đức Phiên) đưa ra nhà Thụy Ký ở Hà Nội in ngay cuối năm ấy. In theo phương thức "tự xuất bản". Vì vậy ở bìa trong của sách có ghi: "Nguyễn Đức Phiên xuất bản". Sách phát hành đầu năm 1942, bán rất chạy nên cuối năm 1942 đã phải tái bản và cũng được bán hết.
Tuy nhiên, từ đó cho mãi đến năm 1960, "Thi nhân Việt " mới được Trường đại học Tổng hợp Hà Nội xin phép in lại theo lối in rônêô với số lượng bản in rất hạn chế, dành cho giáo viên và sinh viên khoa ngữ văn tham khảo.
Ở Sài gòn, năm 1968, NXB Hoa Tiên in lại hai lần một cách dè dặt (vì Hoài Thanh là … "Việt cộng").
Năm 1985, NXB Đông Nam Á do một vị linh mục đứng ra tái bản "Thi nhân Việt " ở
Một chi tiết thú vị: Năm 1986, NXB Giáo dục có đề nghị gia đình Hoài Thanh cho biên tập lại nội dung "Thi nhân Việt Nam" để in làm sách tham khảo trong nhà trường. Gia đình không đồng ý. Cùng năm 1986, NXB Văn học cũng có đề nghị tương tự nhưng gia đình vẫn không đồng ý. Mãi đến năm 1988, NXB Văn học đáp ứng yêu cầu của gia đình (in theo đúng bản chính từ bìa đến nội dung) nên mới xuất bản được. Tuy vậy để vượt qua được một số áp lực "nặng ký" bấy giờ, NXB Văn học tìm ra được một "cái chốt an toàn" là đề ở bìa trong của cuốn sách là "Sách nghiên cứu" (!).
Một điều trớ trêu là tôi và Phan Hồng Giang là hai người con được Hoài Thanh ghi trong "Mấy lời để lại cho các con cháu" trước khi ông mất rằng hai chúng tôi có trách nhiệm giữ gìn và chăm sóc các công trình nghiên cứu, bài vở, bản thảo để lại của ông nhưng thật tình mà nói đến lúc này (tháng 8/2008) chúng tôi không thể đưa ra con số "Thi nhân Việt Nam" đã được tái bản chính xác là bao nhiêu lần. Đơn giản là bởi cái tình trạng coi thường pháp luật về bản quyền của một số nhà xuất bản và nhất là của một số doanh nghiệp có cái tên là "nhà sách" này nọ đã cho in lại "Thi nhân Việt Nam" mà không một lời xin phép gia đình Hoài Thanh và những người thừa kế hợp pháp của ông.
Mới gần đây thôi, khoảng đầu tháng 7/2008, tình cờ tôi xem một hàng sách ở vỉa hè đường Nguyễn Chí Thanh thấy có bày bán "Thi nhân Việt Nam". Lật vội bìa sau thấy đề tên một nhà sách ở 808 đường Láng. Điều ấy có nghĩa, theo quy định hiện hành, nhà sách ấy là "đầu nậu" in và phát hành. Lật trang cuối cuốn sách thì thấy ghi: "Biên tập: Ban văn học nước ngoài". Chúng tôi gọi điện hỏi NXB: Tại sao sách in từ 2006 mà gia đình không được hỏi ý kiến để cho phép in? Đại diện NXB trả lời đại ý: "Nhà sách ấy bậy lắm, họ in rồi cũng không báo và nộp sách cho NXB. Để chúng tôi có ý kiến với họ". Ô hay, giấy phép là NXB cấp mà NXB cũng không theo dõi xem đối tác làm ăn thế nào. Đấy là chưa kể hà cớ gì "Ban văn học nước ngoài" lại đứng ra "biên tập" cuốn sách này?".
Tính đến nay (8-2008) "Thi nhân Việt " đã được tái bản trên 40 lần. Tôi chỉ dám nói trên 40 lần vì không kể 5 lần tái bản từ năm 1942 đến 1985 ở trong nước và ngoài nước đã kể trên thì từ năm 1988 đến nay đã có 5 NXB in lại "Thi nhân Việt Nam" 37 lần. Năm 1988, NXB Văn học tái bản lần đầu trong thời Đổi mới đã cho ấn hành tới 15.000 bản. NXB Văn học cũng giữ kỷ lục in lại "Thi nhân Việt " (trực tiếp tái bản hoặc liên kết xuất bản với các nhà sách hoặc tổ chức văn hóa) tới 33 lần, mỗi lần các NXB in lại đều đề số lượng in là 1.000 bản (trên thực tế, số lượng thường vượt hơn 1.000 bản). Tôi biết chắc người ta đã in lại "Thi nhân Việt " một cách không hợp pháp (không xin phép gia đình Hoài Thanh) ít nhất là 5 lần. Những trường hợp in lậu theo lối "luộc sách" phổ biến hiện nay thực tình tôi không nắm chắc được là bao nhiêu lần.
Từ thân phận "chìm nổi" của "Thi nhân Việt Nam" vừa kể trên, có thể rút ra một vài nhận xét như sau:
"Thi nhân Việt " chìm hay nổi trong hơn sáu mươi năm qua có nguyên nhân là do các biến thiên lịch sử, do "thời tiết chính trị". Dấu ấn thời đại trong các thời điểm tái bản "Thi nhân Việt " đều hiện ra rất rõ.
Có nhu cầu tìm đọc rất lớn của nhiều thế hệ công chúng nên "Thi nhân Việt " là một trong nhiều tác phẩm văn học xuất bản trước cách mạng Tháng Tám được in đi, in lại nhiều lần với số lượng phát hành rất lớn: cả trăm ngàn bản.
Từ hai nhận xét nêu trên, khó lòng có thể xem "Thi nhân Việt Nam" là một tác phẩm "chìm sâu hơn nữa vào con đường nghệ thuật vị nghệ thuật" (như cố Giáo sư Phan Cự Đệ từng nhận định trong cuốn "Nhà văn Việt Nam 1945-1975"). Không lý gì nhiều thế hệ bạn đọc hôm nay lại chạy theo trào lưu "nghệ thuật vị nghệ thuật" từng nhiều lần bị lên án một cách chính thống trong thời gian khá dài?
Vậy vì sao "Thi nhân Việt Nam" đã và đang tiếp tục được bạn đọc yêu mến, được đánh giá là một đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam và tác giả của nó là một nhà phê bình văn học kiệt xuất, một "thiên tài" văn chương như nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc bình phẩm, thẩm định?
Trả lời cho câu hỏi này không thể là gì khác ngoài giá trị văn chương đích thực của "Thi nhân Việt ". Đích thực cả trên hai phương diện: Thơ của 46 nhà thơ cùng với 169 bài thơ của họ được tuyển vào "Thi nhân Việt Nam" hầu hết đều là những bài thơ hay và phương diện thứ hai là "con mắt tinh đời", "lấy hồn tôi để hiểu hồn người" của Hoài Thanh được thể hiện từ cách sưu tầm, tuyển chọn từ "hơn một vạn bài thơ dở" qua nhiều sách báo suốt trong mười năm (từ 1932 đến 1941) đến công việc tổng kết một cách khoa học, khách quan với rất nhiều công sức, với trí tuệ sắc sảo, với những nhận xét tinh tế và đặc biệt là với những lời bình duyên dáng, ý nhị, độc đáo, giàu chất thơ của tác giả "Thi nhân Việt Nam". Nhờ vậy, "Thi nhân Việt " đã trở thành tấm bia vàng không thể hao mòn đánh dấu một thời huy hoàng cách tân nền thi ca dân tộc.
Tôi xin phép không phân tích, chứng minh cho những nhận định có tính tổng quát về "Thi nhân Việt " vừa nêu trên. Bởi vì đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về "Thi nhân Việt Nam" được công bố trên các sách báo của nhiều tác giả đã đưa ra những nhận định đúng đắn, khoa học được chứng minh một cách đầy sức thuyết phục về giá trị đích thực và vĩnh cửu của "thơ mới" và "Thi nhân Việt Nam".
Lúc còn sống, những lần gặp tôi, nhà thơ Huy Cận thường nói: "Trong Thi nhân Việt có 40 nhà thơ thì Hoài Thanh là nhà thơ 41". Huy Cận đánh giá rất cao sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh. Ông cho rằng Hoài Thanh: "Là một nhà bình luận văn chương hiếm thấy trong văn học thế giới". (Xin xem: "Hoài Thanh với khát vọng chân – thiện – mỹ" – Từ Sơn và Phan Hồng Giang biên soạn NXB Hội Nhà văn-1999, tr.260). Hồi 19 giờ ngày 17-6-2000, nhà thơ Huy Cận gọi điện cho tôi và bảo tôi ghi lại bài thơ ông mới viết về Hoài Thanh. Bài thơ ấy tôi đã mạn phép vong hồn nhà thơ Huy Cận trong một bài viết của tôi đăng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 16-6-2007. Tiện đây, tôi xin chép lại bài thơ ấy như sau:
NHỚ HOÀI THANH
Lấy hồn tôi hiểu hồn người
Câu văn tri kỷ một thời thơ ca.
Cũng người một hội đâu xa
Nỗi đau nhân thế cũng là niềm chung.
Trăm năm một hội tao phùng
Rằng thi thoại ấy bạn cùng thi nhân!
"Nỗi đau nhân thế" theo tôi, chính là hạt nhân làm nên giá trị vĩnh cửu của "Thơ mới" và "Thi nhân Việt ".
Lại nhớ: trong "Di bút" của Hoài Thanh có đoạn kể lại: "Anh Huỳnh Văn Gấm, họa sĩ kể: Khoảng giữa năm 1947, anh Gấm lúc bấy giờ trong Tỉnh ủy Tân An có chèo thuyền đưa anh Duẩn (đồng chí Lê Duẩn – TS) đi tránh giặc. Tàu giặc chạy trên sông Vàm Cỏ Tây. Hai anh tránh vào một chỗ có lá che khuất nhưng vẫn nghe tiếng tàu giặc. Anh Duẩn nói về nghệ thuật. Anh nhắc đến cuộc tranh luận giữa Hoài Thanh và Hải Triều, theo anh, nghệ thuật có thể phản ánh gián tiếp. Không nhất thiết bức tranh nào cũng trình bày bằng hình ảnh công nông. Một bông hồng rung rinh dưới ánh mặt trời trong sương sớm sao lại không được xem là nghệ thuật vị nhân sinh? Anh Gấm không biết do đâu mà lại có chuyện bông hồng này nó vốn là một hình ảnh tôi từng đưa ra để nói về nghệ thuật và đã bị phái vị nhân sinh phê phán rất gắt gao. Anh Duẩn lúc bấy giờ là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ”. (Xem "Hoài Thanh – Di bút và di cảo" – Từ Sơn sưu tầm và biên soạn- NXB Văn học, 1993,tr.55).
Tôi nghĩ: với "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh đã và đang trên đường tìm về tâm hồn Việt thanh khiết, cao quý được thể hiện qua những vần thơ, những hồn thơ mang đậm hương sắc dân tộc trong một thời đại cơ hồ như bị Âu hóa và nỗi đau lớn nhất của con người Việt Nam lúc bấy giờ là bị làm nô lệ, bị mất nước.
Hoài Thanh cũng như các nhà "Thơ mới" bị giam hãm trong một môi trường thiếu năng lượng, thiếu chất đốt của niềm tin, nên thơ của họ cũng như cuộc sống của họ có những hạn chế, tầm nhìn của họ còn chưa đủ thấy được tương lai tươi sáng của ngọn lửa Cách mạng đang được nhen nhóm để đưa dân tộc tới một cuộc đổi đời lớn sau này. Nhưng dù sao trong trái tim họ cũng đã lập lòe "ngọn lửa Đancô" trên thảo nguyên mịt mùng của cuộc đời. Đó là ngọn lửa của tình yêu con người Việt , yêu non sông đất nước Việt , yêu tiếng mẹ đẻ…
Theo Từ Sơn – CAND Online