Bên bờ hạnh phúc

Nam bộ khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ngày 25-8-1945. Chỉ 28 ngày sau, quân viễn chinh Pháp theo chân quân Anh (vào miền Nam giải giáp quân Nhật sau khi Nhật đầu hàng), đã đánh chiếm các cơ sở quan trọng của chính quyền cách mạng ở Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Một viên tướng Pháp huyênh hoang: “Khi quân Pháp ra tay thì Việt Minh sẽ bỏ chạy như vịt”.

Thực tế thế nào?

Đúng là khi quân dân Nam bộ đứng lên khởi nghĩa, vũ khí trong tay chỉ có tầm vông vạt nhọn, một số súng lửa, súng trường cũ lấy được của quân Pháp, Nhật. Còn quân Pháp thì được trang bị vũ khí tối tân, tàu chiến, xe bọc thép, xe tăng, tàu bay các loại… tức lực lượng tinh nhuệ của đội quân viễn chinh nhà nghề.

Những ngày tháng Tám sôi sục ở Sài Gòn (1945)

 

 

Tiến đánh Sài Gòn thực dân Pháp muốn tái diễn kịch bản của một thế kỷ trước, chiếm miền đất trù phú, đông dân này để làm bàn đạp thôn tính cả Việt Nam, cả Đông Dương. Thế nhưng chúng đã lầm. Nam bộ của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 đã hoàn toàn chuyển đổi về chất: Từ thân phận người dân nô lệ đã thành người chủ đất nước, dù chỉ hưởng Độc lập non một tháng, nhưng những con người Việt Nam ở Nam bộ đó đã sẵn sàng nối tiếp gương anh hùng liệt sĩ ngàn xưa, xả thân cứu nước, sẵn sàng hy sinh giữ “Lời thề độc lập” mà họ đã cùng nhau thét vang tại quảng trường thành phố Sài Gòn ngày 2-9-1945.

Ngay trong đêm 22-9-1945, quân dân tự vệ Sài Gòn – Chợ Lớn đã quyết liệt đánh trả quân xâm lược. Sau khi “Lời kêu gọi kháng chiến” của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ được truyền đi, nhân dân thành phố đã thực hiện “Vườn không nhà trống”, biến Sài Gòn thành một thành phố không điện, không nước, không chợ búa… Quân dân Sài Gòn đã hình thành 4 mặt trận bao vây nội đô: Mặt trận Thị Nghè, Mặt trận Bà Điểm – Tham Lương, Mặt trận Phú lâm, Mặt trận Nhà Bè – Cần Giuộc… Thực hiện phương châm “Trong đánh ngoài vây”, đội quân trang bị thô sơ đó đã không “chạy như vịt”, mà đã làm đội quân viễn chinh nhà nghề Pháp phải điên đảo suốt hơn một tháng trong vòng vây của dân quân cách mạng. Nhà báo Trần Tấn Quốc đã ghi lại tình hình Sài Gòn lúc đó trong tác phẩm “Saigon, Septembre 1945”: “Dân quân đã bắt đầu thực hiện chiến thuật khi ẩn lúc hiện, đột nhập thình lình để phá hoại chớp nhoáng và lập tức rút lui trong im lặng. Người ta có thể ví lối đánh này là một chiến thuật “xuất quỷ nhập thần”… Xế chiều 24-9, một đội quân tiến theo đường Verdun (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), tràn xuống trung tâm Sài Gòn, chiếm chợ Bến Thành, kéo thẳng đến đại lộ Bonard (nay là đường Lê Lợi), xả súng bắn. Mặt khác, nhiều đội dân quân vượt kênh Tàu Hủ, đổ bộ lên Sài Gòn, tiến thẳng về đại lộ De La Somme (nay là đường Hàm Nghi)… Người ta nghe tiếng súng nổ khắp nơi… Ở xa xa nhiều đám cháy ngùn ngụt, đỏ trời”… (Trần Tấn Quốc, “Saigon, Septembre 1945”, Sđd, trang 58). 

Trận Thị Nghè nổi tiếng là một chiến thuật lấy yếu đánh mạnh: Dân quân du kích núp trên cành cây dày đặc trên đường Thị Nghè – Hàng Xanh, bất ngờ nhảy xuống tập kích diệt một số quân địch đang mò ra phá vòng vây, khiến địch bất ngờ hoảng loạn kéo chạy, bỏ lại cả súng đạn…

Cuộc kháng chiến của Sài Gòn – Nam bộ đã động viên cả nước tiếp sức: Chỉ ba ngày sau, ngày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lời động viên quân dân Nam bộ trên Đài Tiếng nói Việt Nam: “Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam bộ”. Chỉ sau 14 ngày, đoàn quân Nam Tiến đầu tiên chi viện cho Nam bộ do tướng Nam Long chỉ huy đã vào đến Thủ Đức (6-10-1945). Các đơn vị “hải ngoại” trang bị súng bén hơn (lực lượng quân sự thành phần là con em bà con Việt kiều yêu nước, thành lập ở Cao Miên, Thái Lan, Lào), lần lượt về Nam bộ tham gia kháng chiến… Riêng khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập 6 “Đội công tác thành” chiến đấu trong lòng địch.

Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra quyết liệt từ 23-9-1945. Quân dân Nam bộ tuy chịu nhiều tổn thất hy sinh nhưng đã cầm chân quân viễn chinh Pháp, khiến chúng không thể nhanh chóng đưa quân ra chiếm miền Bắc. Cuộc kháng chiến Nam bộ đã tạo được thời gian 15 tháng cực kỳ quý báu cho cả nước chuẩn bị Toàn quốc kháng chiến mà chúng ta biết là không thể tránh khỏi. Và bằng cuộc kháng chiến của mình, Nam bộ đã cùng cả nước góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vĩ đại sau đó 9 năm; và chiến thắng quân Mỹ sau đó 30 năm.

69 năm đã trôi qua kể từ ngày 23-9-1945. Chúng ta học được gì từ sự kiện lịch sử ấy?

1- Nếu chỉ so sánh lực lượng đơn thuần về quân số và vũ khí thì khó có thể tưởng tượng Nam bộ có thể đứng được chứ không nói là chiến thắng quân xâm lược. Thế nhưng điều thần kỳ đã xảy ra. Quân dân Nam bộ đã đánh địch và thắng địch, không chỉ bằng khí phách dũng cảm anh hùng, mà cả bằng bản lĩnh, trí tuệ của truyền thống dân tộc mà mình đã thừa hưởng tự tiền nhân.

2- Thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay nối tiếp tinh thần Nam bộ kháng chiến, với lòng tự hào về những thế hệ đi trước, chắc chắn sẽ chuyển lòng tự hào đó thành quyết tâm bảo vệ Tổ quốc trước những thách thức của những kẻ đang nuôi ý đồ muốn tiếp tục xâm phạm đất nước, biển đảo của Việt Nam hôm nay.

Nguồn:Nguyễn Trọng Xuất (nguyên Tổng thư ký công trình “Lịch sử Nam bộ kháng chiến”) / Báo CA TPHCM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *