Nọc độc rắn, bọ cạp hay ong là những thứ đáng sợ, nhưng khéo vận dụng, các nhà khoa học biến chúng thành những phương thuốc chữa nhiều loại bệnh ung thư, viêm tụy…

Mọi người thường hay có thái độ tiêu cực với những loài động vật hay côn trùng sử dụng nọc độc để giết con mồi. Những hình dung về những vết nhện cắn, rắn cắn, ong đốt thường khiến mọi người cảm giác sợ hãi vì những chất độc mà chúng đã truyền vào cơ thể. Nhưng trên thực tế, một số nọc độc lại rất có lợi cho sức khỏe con người.

Trong nọc độc chứa hàng trăm thành phần khác nhau, một số chất trong đó không phải là chất độc. Nọc độc có hoạt tính sinh học rất mạnh và các hợp chất pha chế từ chúng cung cấp một nguồn nguyên liệu tự nhiên lớn cho các nhà khoa học để điều chế các hóa chất khác, từ đó phát triển thành thuốc. Từ bọ cạp, nhện…các nhà khoa học đang tìm nhiều cách khác nhau để biến nọc độc thành những chất có lợi.

Dưới đây là 5 bằng chứng cụ thể về việc sử dụng nọc độc để chế tạo thuốc:

Nọc độc của bọ cạp Stalker: điều trị ung thư não

Thành phần Chlorotoxin trong nọc bọ cạp Stalker có tác dụng với tế bào ung thư não trong việc tăng cường hiệu quả tiêu diệt.

Loài bọ cạp Stalker (hay còn gọi là bọ cạp vàng Palestin, bò cạp sa mạc Israel), là loài bản địa sống ở vùng Bắc Phi và Trung Đông, đồng thời là một trong những động vật có nọc độc nguy hiểm nhất Trái Đất.

Không như những loài bọ cạp thông thường, vết cắn của chúng chỉ gây đau đớn sưng tấy trên cơ thể, nọc độc của bọ cạp Stalker là một dạng chất độc thần kinh, đủ mạnh để giết chết một đứa trẻ hay một người cao tuổi do gây ra hiện tượng phù nề phổi.

Năm 2009, Miqin Zhang – giáo sư về công nghệ và khoa học vật liệu cùng nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Washington (Mỹ) đã tìm thấy trong nọc độc của bọ cạp Stalker hợp chất chlorotoxin (mặc dù có tên toxic nhưng nó không phải là chất độc) có thể giúp điều trị ung thư não.

Trước đây, trong liệu pháp gien, các bác sĩ đưa một lượng nhỏ DNA khỏe mạnh gắn vào các nano và chuyển vào khối u để chữa trị hoặc thay thế các gen đột biến gây ung thư. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là các chất mang không đưa các DNA đến đúng nơi khiến hiệu quả điều trị thấp, hoặc có những tác dụng phụ tiềm tàng nguy hiểm.

Phương pháp của Zhang làm tăng gấp đôi hiệu quả chữa trị nhờ việc kết hợp chlorotoxin gắn vào hạt nano. Khối tổ hợp này tồn tại lâu hơn trong cơ thể nhờ đó có nhiều cơ hội tiếp xúc với khối u hơn. Các nhà khoa học hy vọng, kỹ thuật này có thể được áp dụng cho nhiều loại ung thư khác.

Nọc độc ong: biện pháp điều trị ung thư

Để cho ong đốt là một xu hướng nhiều người với hy vọng chữa ung thư.

Nhóm nghiên cứu do Samuel Wickline dẫn đầu thuộc Đại học Washington (Mỹ) đã tạo ra một loại dược chất siêu nhỏ, gọi là nanobee, có thể tiêu diệt các tế bào ung thư. Các quả cầu nanobee này chứa chất độc melittin, vốn được tìm thấy trong nọc ong, sẽ xâm nhập vào các tế bào ung thư và phá hủy các tế bào ung thư bằng cách khoan lỗ xuyên qua chúng.

Trong thử nghiệm của mình, sau 4 – 5 lần bơm các nanobee chứa chất độc trong vài ngày vào người chú chuột mắc bệnh ung thư vú, tăng trưởng của các khối chậm đi 25%; còn với những con chuột bị ưng thư da, các khối u giảm tới 88%.

Giống như chlorotoxin chiết xuất từ nọc bọ cạp, melittin của nọc ong có thể giúp cung cấp các hợp chất thuốc điều trị cho các tế bào bị hư hỏng. Theo các nhà khoa học, nanobee không chỉ giúp trì hoãn và thu nhỏ kích cỡ các khối u ung thư mà còn ngăn chặn quá trình phát triển bệnh này.

Biện pháp để tăng cường hiệu quả tác động vào đúng các tế bào ung thư, đó là Wickline đặt melitin vào lớp màng của các phân tử nano, giúp cho không ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc.

Lợi thế của melittin là dễ sản xuất và giá thành rẻ. Các nhà khoa học tin rằng, nanobee có thể ngăn chặn sự lây lan của các tế bào bị bệnh có nguy cơ trở thành tế bào ung thư. Tuy nhiên, cần phải tiến hành nhiều các thử nghiệm trên động vật trước khi sử dụng cho người.

Nọc độc của nhện đen Chi Lê: điều trị chứng loạn cơ

Nhện đen Chilê thường được bày bán như thú cưng, với nọc độc ít gây hại cho con người.

Các bức vách bao quanh các tế bào cơ có những kênh ion, mở ra khi tế bào được kéo căng ra. Ở quả tim, những chiếc ống này có nhiệm vụ co giãn các cơ. Khi các ống này giãn ra quá rộng, nó sẽ chuyển hoá một lượng lớn các ion vào trong tế bào. Những ion thêm vào này sẽ phá huỷ tim. Đây cũng là nguyên nhân gây ra các hiện tượng căng thẳng trong cơ bắp: khi cơ căng quá mức, hình thành các kênh ion dẫn đến hiện tượng loạn dưỡng cơ; nếu nặng có thể gây liệt ở trẻ em.

Frederick Sachs, giáo sư sinh vật thuộc Đại học Buffalo (Mỹ), là một chuyên gia nghiên cứu về chức năng của các kênh ion đang thực hiện nhiều thí nghiệm để tìm cách hạn chế và tắt các kênh ion này.

Sau nhiều nghiên cứu với các loại thành phần thuốc khác nhau mà không có hiệu quả, Sachs và đồng nghiệp chuyển sang thử với nhện đen Chi Lê, một loài côn trùng thường bán ở các hiệu thú nuôi.

Trong các cuộc thử nghiệm, Sachs nhận ra độc tính của nọc nhện rất yếu, không đủ để làm hại con người và có một loại peptide với ký hiệu GsMtx-4. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, loại peptide này giúp giảm sự căng thẳng trong cơ bắp. Khi tiêm một hợp chất có chất peptide vào chuột thí nghiệm, hoạt động của các cơ đã được cải thiện do hoạt tính của peptide làm tắt các kênh iôn.

Nọc độc của bọ cạp vàng: nghiên cứu viêm tụy

Nhiều người hy vọng ngâm rượu bọ cạp vàng có thể chữa trị viêm tụy.

Hợp chất Antarease, tương tự như peptide được tìm thấy trong nọc độc của loài nhện đen Chi Lê, có thể là một công cụ hữu dụng trong chữa bệnh vì nó cũng có ảnh hưởng tới các kênh ion.

Các nhà khoa học thuộc Đại học Đông Carolina vừa phát hiện chất antarease có trong nọc độc của loài bọ cạp vàng thường sinh sống ở Brazil. Độc tính của nọc độc thường gây ra bệnh viêm tụy, đặc biệt là chứng sưng tụy cấp đối với những nạn nhân của "cú chích tử thần".

Các nhà khoa học nhận thấy, khi tiêm hợp chất có chứa antarease vào mô tuyến tụy thì tác dụng của nó là phá vỡ sự kiểm soát của tuyến tụy đối với emzym tiêu hóa, insulin và các protein khác…đây là nguyên nhân gây sưng phù.

Viêm tụy là thường do sỏi mật và lạm dụng rượu. Thậm chí, theo một nghiên cứu vừa công bố, viêm tụy có thể dẫn tới ung thư tuyến tụy. Các nhà khoa học hy vọng sẽ nghiên cứu cơ chế tác động nọc độc bọ cạp và chất antarease để hiểu hơn là bệnh viêm tụy và đưa ra kế hoạch điều trị tốt hơn.

Nọc độc của rắn hổ mang: điều trị viêm khớp

Trong cái may cũng là cái rủi khi mà người bị rắn cắn có thể thuyên giảm bệnh viêm khớp.

Những con rắn hổ mang Ấn Độ là một trong những loài rắn độc phổ biến nhất ở Đông Nam Á. Hằng năm, có hơn 10.000 ca tử vong ở Ấn Độ xảy ra do những phát cắn tử thần.

Tuy nhiên, có một điều vô cùng tình cờ: những người bị viêm khớp, nếu không bị tử vong do cú cắn chết người của loài rắn hổ mang Ấn Độ, nhận thấy tình trạng bệnh của mình thuyên giảm rõ rệt.

Một họa sĩ người Anh, sau khi thoát nạn từ vết cắn của một con rắn hổ mang trong vườn của mình đã tuyên bố rằng, mình không phải chịu hành hạ quanh năm của bệnh viêm khớp nữa.

Đây là lý do khiến nhiều nhà khoa học hy vọng vào một phương pháp điều trị dựa trên nọc độc rắn. Tháng 1/2010, nhà sinh lý học Antony Gomes và nhóm nghiên cứu của ông tại Đại học Calcutta (Ấn Độ) công bố nghiên cứu trên tạp chí Toxicon chứng minh vai trò của nọc độc trong việc cải thiện chứng viêm khớp.

Trong nghiên cứu tiến hành trên loài chuột, các nhà khoa học đã tiêm vào lũ chuột thí nghiệm vi khuẩn bệnh lao trong dung dịch muối và ô liu, khiến cho chúng mắc bệnh viêm khớp. Tiếp sau đó, họ chia lũ chuột thành hai nhóm và tiến hành tiêm một liều nọc độc rắn hổ mang (với cường lực không đủ giết chết con chuột) trên một nhóm. Kết quả cho thấy, các triệu chứng viêm khớp của chúng suy giảm đáng kể trên lũ chuột được tiêm nọc độc. Ngược lại, những con chuột không được điều trị bị các chứng viêm khớp trên các chân, sụn.

Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu tác động cụ thể của nọc độc rắn đối với động vật trước khi tiến hành thử nghiệm trên người. Bên cạnh đó, họ tìm kiếm tác động tương tự với nọc độc các loại rắn độc khác nhau, từ loài rắn vua nhỏ đến hổ mang chúa.

Theo baodatviet

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *