Trên thế giới cũng vậy. Ở Trung Quốc, từ Tào Tháo đến Mao Trạch Đông đều là những nhà thơ. Nêrô bạo chúa thời La Mã – kẻ đã đốt cả thành Rôma – là nhà thơ. Tổng thống Sátđam Hútxen (Irắc) viết tiểu thuyết. Xămđéc Nôrôđôm Xihanúc (Cămpuchia) vừa đóng phim vừa sáng tác nhạc. Tổng thống Mỹ Rônan Rigân từ một diễn viên điện ảnh, từng đóng vai găngxtơ tiêu diệt người da đỏ khá thành công…
Anh hùng và nghệ sĩ
Vậy anh hùng và nghệ sĩ hòa hợp hay đối kháng? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời. Giáo sư Vũ Khiêu, từ mấy chục năm trước đã có một chuyên luận về vấn đề này làm tôi chú ý. Nhà thơ Xuân Thủy thì ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ".
Nhưng tâm hồn nghệ sĩ theo cách hiểu thông thường là hơi ủy mị, mềm yếu, nhạy cảm, dễ xúc động, thì làm sao hòa hợp với tính chất anh hùng cứng rắn? Và tâm hồn nghệ sĩ nhiều khi cũng được hiểu đi liền với cái đẹp và sự trong sáng. Vậy làm sao lại có nhà thơ bạo chúa Nêrô?
Làm sao lại có nhà thơ gian hùng Tào Tháo? Trong lịch sử văn học Pháp còn có một người làm thơ hài hước chuyên trộm cắp bị kết án treo cổ, khi lên ngọn đầu đài đã làm bài thơ hài hước về tình cảnh của mình nổi tiếng còn lưu truyền đến nay.
Griselidis Réal (1929 – 2005) là gái điếm chuyên nghiệp kiêm văn sĩ đa tài của Thụy Sĩ, với kiệt tác văn chương "Sổ tay của một điếm cao cấp", khi chết phần mộ được đưa vào Nghĩa trang các Vua ở thành phố Giơneve (theo Tạp chí Người đẹp Việt Nam số 241 ngày 1/4/2009).
Tôi cũng thường nghe nói nhà thơ với nhà thơ là bạn. Nhiều người "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình", gặp nhau lập tức trở thành bạn thân thiết. Các đôi bạn thơ Nguyễn Khuyến – Dương Khuê, Xuân Diệu – Huy Cận như biểu tượng của tình bạn thi sĩ.
Đỗ Phủ và Lý Bạch, hai phong cách thơ tưởng chừng như đối lập, một người hiện thực, một người lãng mạn mà nhớ nhau cũng thành những bài thơ nổi tiếng… Ngược lại, cũng có những nhà thơ đối lập nhau.
Vua Tự Đức khi đọc "Truyện Kiều" đã nói : Nếu Nguyễn Du còn sống thì phải nọc ra đánh 300 roi. Và chính vua Tự Đức đã tiêu diệt nhà thơ Cao Bá Quát và sự chống đối của những nông dân vùng Mỹ Lương. Ngoài ra, còn có không ít nhà thơ ganh ghét nhau… Cho nên, cũng không nên nhìn nhận và lý giải vấn đề anh hùng và nghệ sĩ một cách đơn giản được.
Thực ra anh hùng và nghệ sĩ không đồng đẳng trường ngữ nghĩa. Sáng tạo nghệ thuật, văn nghệ sĩ với tư duy hình tượng bay bổng và giàu tưởng tượng. Nó đối lập với tư duy lôgíc cụ thể của khoa học. Vì vậy, các nhà khoa học thường không sáng tạo nghệ thuật và các văn nghệ sĩ thường không làm khoa học.
Nếu họ có làm thì cũng là làm tay trái, không thể thành công lớn được. Còn anh hùng và nghệ sĩ lại là một cặp phạm trù khác, không đối lập nhau, nhưng cũng không hoàn toàn đồng hợp. Anh hùng và nghệ sĩ có ảnh hưởng đến nhau không? Nếu hai phẩm chất này cùng có ở một con người thì nó tôn nhau lên hay níu kéo nhau xuống?
Ở hai danh nhân văn hóa thế giới là Nguyễn Trãi tiên sinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh thì rõ ràng hai phẩm chất này đã tôn nhau lên. Còn hai nhà thơ Pêtôpi (Hunggari) và Cao Bá Quát thì chất nghệ sĩ có là nguyên nhân làm cho cuộc khởi nghĩa của họ thất bại?
Vì thế, các văn nghệ sĩ cũng không nên quá tự hào về phẩm chất nghệ sĩ. Phẩm chất nghệ sĩ có cả những ưu điểm và khiếm khuyết. Từng nghệ sĩ phát huy những ưu điểm của phẩm chất này và hạn chế những khiếm khuyết của nó như thế nào? Thời kinh tế thị trường có những văn nghệ sĩ làm kinh tế giỏi và cũng không ít văn nghệ sĩ bị phá sản.
Vấn đề là : Các văn nghệ sĩ phải tự biết mình. Nếu không có phẩm chất của người quản lý thì đừng nên làm lãnh đạo, không có tư duy kinh tế thì đừng lao vào thương trường. Hãy cứ làm văn nghệ sĩ thuần túy, đốt cháy trái tim của mình lên và tỏa sáng. Ánh sáng của nghệ thuật cũng vinh quang lắm rồi.
Ông cha ta từ xưa đã truyền dạy : "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" đấy thôi. Thì Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Hàn Mặc Tử, rồi Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu nào có chức tước của nả gì, mà bằng tài năng của mình, tên tuổi cứ trường tồn cùng trời đất. Chứ cần gì phải nhòm nhỏ những ngôi vị cao sang, những môi trường màu mỡ. Bởi vì biết bao ông quan to, vô vàn kẻ trọc phú không để lại tuổi tên, thậm chí có kẻ còn lưu danh xấu.
Tự biết
Ở đời, đạt đến độ tự biết rất khó. Nhưng tự biết quan trọng vô cùng, nên từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, tôi đều thấy tự biết được đề cập đến. Từ xưa ở phương Đông, các nhà Nho đều truyền tụng lời của Mạnh Tử : Biết thì bảo là biết, không biết thì nói không biết, thế mới là biết.
Ở một vùng của nước Nga có lời truyền trong dân gian khuyên mọi người phải tự biết : Hai mươi tuổi không có sức khỏe thì không có sức khỏe nữa, ba mươi tuổi không có tài thì không có tài nữa, bốn mươi tuổi không có tiền thì không có tiền nữa.
Ở Việt Nam, mọi người hay nói đến "Ngũ thập tri thiên mệnh". Trong khi "Nhân sinh thất thập cổ lai hy" (người thọ bảy mươi xưa nay hiếm) mà năm mươi tuổi mới tự biết được mình thì đủ thấy tự biết khó thế nào.
Nhưng theo tôi, người Việt Nam ta có truyền thống tự biết. Không tự biết thì làm sao một đất nước đất không rộng, người không đông có thể tồn tại được? Sự mềm dẻo của ông cha ta trong truyền thống ngoại giao với các nước là sự tự biết cao.
Biết bao dân tộc không tự biết đã phải trả giá đắt, thậm chí đã bị xóa sổ. Truyền thống này đã được nói đến trong thơ. Tư thế dân tộc Việt Nam trong cuộc chống Mỹ cứu nước được nhà thơ Tố Hữu nói đến một cách đầy kiêu hãnh : "Vươn lên cao và tự biết vô cùng".
Nhà thơ Đặng Huy Giang – trong một đề tài khiêm tốn hơn khi nói về loài rùa, tất nhiên là để nói về người – đã phát hiện ra một đặc tính của rùa tự biết mình là ai. Thâm sâu hơn cả, tự biết đã được nghiền ngẫm như là một đường lối chiến lược khi nhà thơ Hồ Chí Minh còn đang phải ở hoàn cảnh hiểm nguy trong nhà tù : "Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời một tốt cũng thành công".
Nhưng quan sát kỹ thì tôi thấy giới văn nghệ sĩ, trong đó có các nhà thơ nhà văn, tiếp thu truyền thống tự biết của dân tộc có hơi lơ là một chút. Có thể là do đặc điểm của những người sáng tạo cứ phải hơi thái quá. Những phát minh, sáng tạo mà ở trong khuôn phép thì vô cùng hạn chế. Nhưng những người cao cường thì biết thả hồn khi sáng tạo và cũng biết được đỉnh để dừng lại. Nghĩa là cũng tự biết.
Trước đây, trong một bài viết, tôi đã lấy ví dụ tự biết mình của nhà văn Kim Lân thể hiện khi dừng sáng tác, và câu thơ mà nhà thơ Chế Lan Viên tự răn mình khi đã ngoài năm mươi tuổi. Nhưng những nhà văn không tự biết mình vẫn nhiều hơn. Bệnh vĩ cuồng là thể hiện người viết hoàn toàn không tự biết. Căn bệnh này không chỉ ở những người viết trẻ. Sự háo danh thì đâu phải chỉ ở những người trẻ. Rất nhiều người trẻ tự biết mình, và cũng không ít người đã "ngũ thập" mà vẫn không "tri thiên mệnh".
Do không tự biết, có người viết vừa được một vài tờ báo không chuyên về văn chương đăng cho mấy bài thơ, thế là đi đâu cũng tự hào mình là nhà thơ và lục lọi lôi hết những bài thơ mình đã viết ra in thành mấy tập. Đặc biệt, những người sáng tác có chức có quyền thì cái bẫy hư danh càng khó tránh. Vì vậy, tự biết phải là người có bản lĩnh rất cao.
Trong chiến tranh, làm tướng cầm quân mà không tự biết thì sẽ bị tiêu diệt. Trong thương trường, giám đốc doanh nghiệp không tự biết thì doanh nghiệp sẽ bị phá sản. Còn người làm thơ, viết văn mà không tự biết thì sẽ thành trò cười cho thiên hạ. Số lượng thơ văn được xuất bản tràn lan những năm gần đây đang báo động về sự không tự biết của nhiều người viết văn làm thơ.
Một số người viết thực sự đang chơi trò chơi vô tăm tích. Nên những người viết chân chính thì chân thành khuyên nhau phải tự biết mình. Ông cha ta từ xưa đã khuyên nhau rất sâu sắc : Biết mười nói một, không biết thì dựa cột mà nghe.
Mong sao, những người không được trời trao nhiệm vụ viết thơ văn thì đừng viết nữa, còn những người được trời trao cho sứ mạng này thì hãy biết mười viết một, để chỉ có tác phẩm hay ra đời. Bởi sản phẩm tinh thần khác sản phẩm vật chất. Sản phẩm vật chất có thể nuôi sống con người bằng số lượng. Còn đời sống tinh thần của con người thì chỉ có thể nuôi sống bằng tác phẩm có chất lượng mà thôi.
ĐINH QUANG TỐN – CANDO