Bên bờ hạnh phúc

Gậy Trường Sơn – huyền thoại của một thời oanh liệt. Nhưng ít ai biết, chiếc gậy Trường Sơn đầu tiên ra đời do một người lính trẻ có tên Phùng Văn Quán. Huyền thoại ấy, ngày ấy – bây giờ vẫn không phôi pha, đổi khác.

SỰ RA ĐỜI HUYỀN THOẠI
 

Nằm khuất sâu trong con ngõ nhỏ của làng Hòa Xá (Ứng Hòa – Hà Nội) là nhà của người lính Trường Sơn năm xưa Phùng Văn Quán.

Trên bàn thờ chính giữa, chiếc gậy Trường Sơn “khai sinh” đầu tiên hiện lên như một linh vật. Ông Quán đã thờ chiếc gậy ấy bao nhiêu năm nay như thờ một nhân chứng bất tử.

Năm 1961, Phùng Văn Quán vào chiến trường. Năm 1963 xuất ngũ vì sốt rét nhưng luôn mong trở lại chiến trường. Sau hai năm dưỡng bệnh, anh Quán viết thư gửi đại tướng Võ Nguyên Giáp xin tái ngũ. Mấy hôm sau, đại tướng đã hồi âm: “Đồng chí cứ chuẩn bị tinh thần”.

Ít lâu sau, Quán cùng hai người bạn là Lưu Tiến Long và Đỗ Tít tái ngũ, vào thẳng chiến trường miền Nam. Đường núi hiểm trở nên chỉ một chút sẩy chân cũng có thể dẫn đến cái chết. Thậm chí bom trên đầu, cọp trong bụi cũng khiến người lính phải cảnh giác đến từng phút giây.

Để thực hiện kế hoạch di chuyển thần tốc trên đường Trường Sơn, các chiến sĩ phải thực hiện việc nghỉ tạm (đứng tại chỗ) giữa đường. Trên vai mỗi người lính là hành trang hàng chục kýlôgam nên khi nghỉ tạm thường đau vai ê ẩm. Trong một lần như thế, Quán rút dao găm chặt một cây rừng cứng dài 1,2m rất nhẹ làm phương tiện đỡ tạm chiếc ba lô.

Sau sự mách bảo của Quán, Đỗ Tít chọn một cây trúc già, Lưu Tiến Long phang một cây tre đực ven đường… và cuộc hành quân của ba chàng trai Hòa Xá phăng phăng trong rừng đá.

Tranh thủ những lúc nghỉ, họ dùng dao găm cẩn thận khắc lên gậy những dòng chữ đầy chí khí. Ở thân giữa cây gậy của Phùng Văn Quán khắc dòng chữ: Thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Cuối gậy dòng chữ nhỏ hơn ghi: Trường Sơn mùng 1-4-1967. Riêng gậy của chiến sĩ Lưu Tiến Long được thiết kế một lỗ nhỏ dùng để… hút thuốc.

Ngoài tác dụng là giá đỡ ba lô, cây gậy còn giúp các chiến sĩ chống khi lên xuống đường lô nhô đá, đường trơn bùn lầy. Thậm chí, gậy còn là phương tiện trợ lực khênh cáng bệnh binh và lúc bất ngờ đánh giáp lá cà địch.

Vào đến chiến trường, ba chàng trai Hòa Xá tình cờ gặp đồng hương là Phùng Tuấn (Đoàn 559) và Phùng Lưu (quân tình nguyện Lào) là chú họ của Quán. Hai người đồng hương đang chuẩn bị có chuyến ra Bắc nghỉ phép (sau này cả hai đều hy sinh, phần mộ hai liệt sĩ vừa được tìm thấy tại Lào nhưng chưa có điều kiện đưa về quê hương – P.V) và thực hiện công tác hậu cần do đơn vị giao.

Cha đẻ của chiếc gậy Trường Sơn Phùng Văn Quán 

 

Sau những phút tâm sự ngắn ngủi, muốn gửi về quê hương vật kỷ niệm để gia đình yên tâm nhưng không có gì đáng giá, họ quyết định gửi ba cây gậy đã cùng mình xẻ dọc Trường Sơn vào chiến trường.

“LỬA” TỪ GẬY TRƯỜNG SƠN
 

Khi Phùng Tuấn và Phùng Lưu đem ba cây gậy về trao cho gia đình và hoàn thành sự ủy thác của đồng hương đã mang lại sức mạnh tinh thần kỳ diệu. Phong trào “Vai đeo 25 cân, chân đi ngàn dặm, vượt suối băng ngàn; Tiền tuyến cần một, Hòa Xá có hai, đã đi là đến, đã đến là đánh thắng” ra đời ở Hòa Xá từ đó, thu hút từ nam – phụ – lão – ấu với các “Phân đội dự bị – Hành quân mang nặng đường dài”. Các phụ lão thành lập “Bạch đầu quân” chuyên làm gậy, đan sọt và mũ rơm phát cho thanh niên tập luyện.

Mỗi lần thanh niên Hòa Xá lên đường nhập ngũ, các bô lão lại trao cây gậy khắc dòng chữ: “Gậy này là gậy Trường Sơn/Của trai Hòa Xá lên đường tòng quân” thay cho lời nhắn trọn lời thề với Đảng với dân.

Một ngày trong rừng, Quán tình cờ nghe được bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn” qua radio. Anh lính sung sướng chạy khắp nơi khoe đồng đội nhưng lúc này, người bạn thân Đỗ Tít đã hy sinh. Đến hôm nay, ông Quán vẫn chưa hết trăn trở, không biết Tít có biết được rằng gậy Trường Sơn đã về tới quê hương?

Năm 1970, trong một trận chiến ác liệt, Quán bị thương phải đưa ra Nghệ An điều trị rồi xuất ngũ ngay trong năm đó.

Cuộc sống đè nặng đôi vai người cựu binh thương tật cùng với nỗi buồn khi con cái đứa nào đứa nấy đều có phần khuyết tật do ảnh hưởng chất độc da cam. Vợ chồng họ ki cóp, làm việc quần quật để xây một ngôi nhà bốn gian trong vòng mười năm mới hoàn thành. Thêm vào đó, những lo toan tất bật thời bao cấp đã khiến ông chẳng thể tỉnh táo để nhớ đến chiếc gậy Trường Sơn.

Đến một ngày, nhà truyền thống địa phương phải sửa chữa, ba chiếc gậy được cất tạm trong văn phòng UBND xã. Nhưng khi ông Quán đến thì quân khu và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã mượn hai chiếc để trưng bày, còn một chiếc để lại cho xã… Và rồi, một thời gian sau ông được tin: Chiếc gậy Trường Sơn đã bị mất.

Rất may, con gái ông lấy chồng gần nhà cụ Dương (cùng thôn Hòa Xá) đã tình cờ thấy chiếc gậy khi cụ Dương sang chơi. Năm 2004, ông Quán đã đổi lại gậy Trường Sơn bằng một cây trúc già để cụ Dương chống tạm.

Sau bao nhiêu năm lưu lạc, chiếc gậy huyền thoại lại trở về với chủ nhân xưa. Ông coi chiếc gậy ấy như một báu vật vô giá nên đã tự tay làm một chiếc bao bằng vải nhung để bảo quản, chống mối mọt, bụi bặm. Chỉ ngày rằm, mùng một hay những ngày lễ lớn ông mới đem ra đặt trên bàn thờ để thắp hương. Chiếc gậy Trường Sơn đầu tiên của nước ta sau 44 năm đến nay vẫn còn nguyên vẹn.

Giờ thì người cựu binh Phùng Văn Quán đã bước sang tuổi 71, mỗi đêm ngồi ôm gậy Trường Sơn mà lòng lại rưng rưng. Bạn bè ông, người sinh kẻ sơ đã khuất, nhiều bạn chiến đấu vào sinh ra tử như Đỗ Tít hay Lưu Tiến Long đã không còn. Bỗng ông muốn hành quân về với chiến trường xưa, không phải một mình, mà cùng với một người bạn – gậy Trường Sơn.

Tháng 7-1967, nhạc sĩ Phạm Tuyên đi thực tế ở Hòa Xá, được nghe kể về chiếc gậy Trường Sơn, được tận mắt chứng kiến, tận tay nâng niu… đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhạc phẩm “Chiếc gậy Trường Sơn”. Bài hát đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và có sức lôi cuốn thanh niên cả nước hăng hái tòng quân chiến đấu giải phóng miền Nam.

Theo Trần Hòa (Báo Công an TPHCM)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *